Chiều 23/9, tại Hội trường Trung tâm chính trị thị xã, MTTQ và các đoàn thể thị xã phối hợp với UBND và VNPT tổ chức lễ phát động cuộc thi "Hoàng Mai tôi yêu". Dự lễ phát động về phía lãnh đạo có các đồng chí: Lê Trường Giang- TUV, Bí thư Thị ủy, Chủ tịch HĐND thị xã; Đàm Hữu Hồng- Phó bí thư Bài thơ "Việt Nam quê hương ta" của Nguyễn Đình Thi được đưa vào sách giáo khoa và giảng dạy ở nhiều cấp học, trong nhiều thập niên từ giữa thế kỷ XX đến bây giờ; nhưng chỉ là phần trích của bài thơ, trước đây lấy tên là "Bài thơ Hắc Hải". Nhân dịp 70 năm ngày thành lập nước, ngày Quốc khánh Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ. Hội đua thuyền được diễn ra trong sự reo hò, cổ vũ của đông đảo người dân và du khách. Hội đình Quan Lạn được tổ chức là để kỷ niệm chiến công của Trần Khánh Dư. Điểm đặc sắc trong hội đình Quan Lạn là các cuộc đua thuyền, người ta còn gọi đây là hội bơi, đua Quan Lạn. Hội đua thuyền là cuộc trình diễn lại các trận chiến thắng năm xưa. Hội nghị TW: Thảo luận Đề án định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia. Buổi sáng của ngày làm việc thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm việc tại Hội trường thảo luận Đề án định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 Thi hội và thi đình cả hai kì thi này diễn ra trong vòng khoảng 8 tháng: mùa xuân thi hội đến mùa thu năm ấy thì thi đình. Còn phép thi hội cũng có 4 kì như thi hương. Kí thứ nhất cho thí sinh làm kinh nghĩa và kinh truyện mỗi thứ một bài, mỗi bài khoảng 1000 tiếng. 2 Lễ kết nạp đảng viên mới đợt I năm học 2021 - 2022 22/12/2021. 3 Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW 22/1/2021. 4 Chi bộ trường Tiểu học Khương Đình kết nạp đảng viên mới năm 2020 23/11/2020. 5 Đại hội Chi bộ Trường Tiểu học Khương Đình, nhiệm kỳ 2020 VN8lm9h. Thi Hương là một khoa thi liên tỉnh, theo lệ 3 năm tổ chức 1 lần về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng và bổ nhiệm làm quan. Sau khi đỗ Cống sĩ thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội, và nếu đậu thi Hội sẽ vào xếp hạng Tiến sĩ khi thi Đình. Xem bảng danh sách những người thi đỗ Trường Nam Định, khoa Đinh dậu 1897.[1] Thi Hương được tổ chức tại các trường thi, nhiều tỉnh thi chung 1 trường, chẳng hạn khoa thi năm 1813 tại trường Quảng Đức có 8 tỉnh-chỉ lấy đỗ 9 người[2]. Kỳ thi Hương gồm có 4 kỳ Sĩ tử nào đậu kỳ Đệ Nhất sẽ được vào thi kỳ Đệ Nhị, đậu kỳ Đệ Nhị sẽ được vào thi Kỳ Đệ tam.... cho đến hết kỳ Đệ Tứ. Chấm thi kỳ Đệ Tứ xong, các quan Giám Khảo sẽ xếp thứ tự từ cao xuống thấp. Sĩ tử đậu kỳ thi Hương đậu 4 kỳ hay đậu tứ trường sẽ phân thành 2 hạng Cử nhân và Tú Tài. Do con số tốt nghiệp là do Triều Đình quy định hạn chế trước cho mỗi Trường Thi. Thông thường thì 1 Cử nhân lấy 3 Tú tài. Quan trường chỉ có việc lấy đủ số do Triều Đình ấn định. Vì vậy mới có "danh xưng" "Cử nhân giật số" và người "giáp Tú Tài chót", trượt luôn...Đời Nhà Lê, thì sinh đậu kỳ thi Hương còn gọi là "Hương Cống". Sĩ tử đậu Tú Tài còn được gọi là "Sinh Đồ" trong thời Nhà Lê, còn sau này thời nhà Nguyễn về sau đều gọi là Cử nhân cả. Chỉ có những Cử nhân mới được tham dự tiếp thi Hội. Các sĩ tử đi thi Hội ở Kinh đô sẽ được gọi là Cống sinh hay Cống sĩ. Ý nghĩa của các danh xưng Cử nhân là tiến cử người tài,dâng người tài. Cống sĩ là kẻ sĩ được tiến cử. Theo sách “Khoa mục chí” trong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học Phan Huy Chú, đến năm 1721, tức năm Bảo Thái thứ 2 đời vua Lê Dụ Tông, nhà Lê trung hưng mới định phép khảo hạch thi đó, ở kì thi Hương, cho các quan huyện khảo hạch học trò, chọn lấy những người giỏi đưa lên Phủ doãn hay hai ty ty Thừa chính và ty Hiến sát khảo kỹ lại, rồi đánh giá học trò chia ra thành hạng “sảo thông” khá thông kiến thức và “thứ thông” thông vừa.Bộ sử “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” cho biết thêm về thể lệ thi này Mỗi năm, có hai kỳ thi khảo. Người nào trúng 8 kỳ thi khảo, nếu là sinh đồ sẽ được miễn các kỳ thi khảo hằng năm, nếu là đồng sinh sẽ được đi thi hạn định số sĩ tử được cử đi thi Hương thì huyện lớn được 200 người, huyện vừa 150 người, huyện nhỏ 100 người. “Cương mục” giải thích thêm về cách thi “Trước hết do viên huyện phúc khảo, chọn lấy người trội nhất gọi là “toát vưu”, sau do viên phủ và hai ty Thừa chính Hiến sát phúc khảo lại để định từng hạng Người nào nghĩa lý về văn bài có phần trội hơn gọi là hạng “sảo thông”, người nào có phần kém một chút gọi là hạng “thứ thông”.“Khoa mục chí” bổ sung về việc khảo hạch này “Được cùng kêu tị nhau để định ưu liệt”, tức là các sĩ tử cũng được tiếp tục thi đua với nhau để định ra hạng “ưu” và hạng “liệt”. “Cương mục” thì giải thích Sau khi đã chia từng hạng rồi, nếu có người nào chưa vừa ý, được phép tự mình khiếu tố so sánh, để ấn định người hơn, người vẽ cảnh trường thi xưa. Ảnh minh “Lịch triều tạp kỷ” của Ngô Cao Lãng, cũng năm này, nhà Lê quy định luôn cách chấm thi Hội. Vì trước đó trong các khoa thi Hội, cứ tùy vào từng kỳ mà lấy vào hay đánh hỏng nhiều ít khác nhau, chứ không có quy chế nhất định. Đến năm này, chúa Trịnh Cương có ý muốn rộng cầu hiền tài, lo rằng quan trường cứ tùy ý mình mà lấy hay bỏ, đến nỗi có sự sơ suất, nên đặc biệt ra lệnh định rõ “phân số” lấy vào hay loại bỏ trong hai kỳ kỳ đệ nhất và đệ nhị, còn số lấy trúng hay đánh hỏng ở kỳ thứ ba phải xin lệnh chúa quyết quy định chấm theo “phân số”, thì bài thi chia ra các hạng hơn kém, như hạng “ưu” có ưu to và ưu nhỏ, hạng “bình” có bình to và bình nhỏ, hạng “thứ”, có các loại thứ mác, thứ cộc, thứ tép và thứ muỗi, rồi đến hạng “liệt”. Các điểm chấm ấy gọi là “phân số”, như ngày nay ta chấm điểm từ 1 điểm đến 10 theo “Khoa mục chí” thì sang năm 1726, vua Lê và chúa Trịnh tiếp tục định cách chấm quyển thi Hội. Theo đó, các quan trường xét quyển thi, hội đồng để chấm, một người đọc, một người nghe, xét cho thỏa đáng, rồi quyết định lấy đỗ hay đánh hỏng chi tiết này không có trong bộ “Cương mục”.Đời Lê đế Duy Phường, năm 1732, triều Lê lại thi hành lệ khảo hạch thi Hương cũ. Theo thể lệ khảo hạch các khoa trước kia, thì các nho sinh và sĩ tử đều lệ theo huyện để thi, người có tài văn chương thì lệ theo quan phụ trách việc giáo dục ở phủ huyện gọi là hiệu quan mà đầu niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông đổi sang cho quan phủ giữ việc khảo hạch, huyện quan và hiệu quan hội đồng để chấm. Do việc ít, người nhiều, dần dần sinh ra những gian tệ. Do đó, đến năm này, vì dư luận xôn xao nên triều đình cho quay về phép khảo thi Hương lại được thay đổi dưới thời vua Lê Hiển Tông, và quay lại như cũ. Vì đầu thời Lê trung hưng, thi Hương ở tỉnh có lệ xã “khảo”, tùy xã lớn, xã trung, xã nhỏ, khai tên học trò đưa lên huyện, huyện quan chọn lấy những người thông văn lý, xã lớn 20 người, xã trung 15 người, xã nhỏ 10 người, gọi là tứ quyển thi trường nhất, nhì, ba cùng với quyển thi của nho sinh và sinh đồ đưa đi khảo một thể, và ai làm đủ quyển đều lấy đỗ. Lúc này hạng trung gian đổi làm hạng sảo thông. Cách chấm này khiến nhiều nhiều học trò giỏi lại bị hỏng. Do đó, triều đình bàn định thi hành lại lệ cũ, nhờ đó học trò dẫu là con nhà gia thế cũng không có kẻ đỗ Huy Chú đánh giá nhờ đó “Người thực tài đều không bị bỏ sót, mọi người đều cho là tiện”. KHOA CỬ THỜI XƯATHI HƯƠNG, THI HỘI,THI đến chế độ khoa cử ở nước ta thì phải tính đến một chặngđường dài mười thế kỉ đã diễn ra dưới thời phong kiến mà khoa mở đầu lànăm Ất Mão1075 đời Lí và khoa kết thúc vào năm Kỉ Mùi1919 đờiNguyễn Khải thể lệ thi buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lí khoảng cách giữacác khoa thi thường là 12 khoa thi Kỉ Hợi1239đời Trần TháiTông, lệ thi mới được định hẳn 7 năm một kì. Sang nhà Lê đời Thái Tôngcho đổi lại 3 năm một kì. Lệ thi được chấp nhận suốt cả một thờikì HậuLê cho tới cuối thời nhà cử thời phong kiến gồm có ba kì thi quan trọng bậc nhất đượccoi như ba cửa ải lớn để bước tới các bậc thang quan chức đầy danh vọngcủa các nho sĩ. Đó là thi Hương Hương thí, thi HộiHội thí và thiĐìnhĐình thí. HƯƠNG trình học tập và điều kiện dự thiỞ nước ta khi xưa học trò bắt đầu đi học gọi là sơ học; học các sáchSơ học vấn tânhỏi bến, Tam tự kinhKinh ba tiếng, Tứ tự kinhKinhbốn tiếng, Ngũ ngônVăn vần năm tiếng.Tập làm văn khi đầu là câu đối2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng…biết phân biệt vần trắc, vần đức dụchọc sinh phải lễ phép kính trên, nhường dưới, thực hiện câu “Tiên học lễ,hậu học văn”.Chừng 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử TrungQuốc, học Bách gia, Chư tử, Cửu lưuChín dòng tư tưởng Cổ đại TrungQuốcNho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia,Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia.;học lịch sử Việt Nam từ thời HồngBàng, tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng gọi là câu đối thơ,8 tiếng trở lên làcâu đối phú và tập làm văn thức trường làng phần lớn là trường tưtư thục. Thầy giáotrường làng được mệnh danh là thầy đồ. Thầy đồ do dân tự gồmnhững người hỏng thi, hoặc thi đỗ mà không muốn ra làm quan, người đãnghỉ việc..Nhà nước không đài thọ trường làng mà chỉ mở trường từ cấphuyện, phủ và tỉnh. Quan quản lí giáo dục ở huyện gọi là huấn đạo, ở phủgọi là giáo thụ, còn danh hiệu đốc học là quan cấp đầu của nhà Hậu Lê năm 1428, Lê Lợi xuống chiếu cho thiênhạ mở trường đào tạo nhân tài. Ở kinh đô có Quốc tử giám, ở địa phươngthì có các phủ học, huyện học. Nhà vua tự mình lựa chọn những ngườituấn tú cho vào tại các trường ở kinh đô. Nhà vua ra lệnh cho các quangiáo thụ, huấn đạo chọn rộng rãi con em người lương thiện cho vào họccác trường phủ, thời Lê Trung Hưng, học sinh trường huyện mỗi kì học phảinộp 5 tiền mạch gọi là tiền minh kinh. Loại trường này chỉ dành riêng chohọc sinh đã có kiến thức năm nhà trường đều tổ chức cho họcsinh thi chất lượng vào tháng tư âm lịch gọi là khảo khóa. Khảo khóa gồm3 kì, ai đậu cả 3kì gọi là khóa sinh. Để chuẩn bị cho các kì thi hương cácanh khóa này được miễn phu phen tạp dịch một năm và họ phải dự kì thitiến ích vào tháng 11 âm lịch, nhằm kiểm tra sự tiến bộ của họ trước khibước vào kì thi hương năm sau. Trước kì thi hương độ 4 tháng, các anhkhóa lại phải vượt qua một kì thi sát hạch nữa. Thể lệ thi sát hạch phải doquan đốc ở tỉnh duyệt. Ai không đủ điểm ở kì thi này, sẽ không được thihương. Tới kì thi hương nếu thực tế chất lượng học sinh khác với chấtlượng khảo hạch, thí sinh không làm nổi bài, thậm chí bỏ giấy trắng thìcác quan kiểm tra bị trừng phạt. Nếu có từ 5 thí sinh không đạt yêu cầutrở lên thì bị cách chức. Giáo thụ, huấn đạo có thể bị giáng mấy của những người dự thi kì thi hương phải có giấy chứng thực lí lịchcủa địa phương và gửi về bộ Lễ trước kì thi một tháng. Bọn lưu manh,côn đồ tuyệt nhiên không được ghi vào danh sách này hồi xưa gọilà Bảo thời cuối Lê những người còn ở trong quân tịch không được dựthi, con em phường chèo, phường hát cũng không được dự thi;triều đìnhnhà Nguyễn còn qui định những học sinh đang chịu tang bố và ông nộicũng không được dự điểm và nội dung của cuộc thiThi hương là kì thi của một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thihội và thi Lê người ta thấy có 9 trường thiHải Dương, Sơn Nam, TamGiang, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ AN vàThuận thời Nguyễn có 7 trường Nghệ An, Thanh Hóagồm cả NinhBình;Kinh Bắc Bắc Ninh, Bắc Giang;Thái Nguyêngồm cả Cao Bằng,Lạng Sơn;Hải Dươnggồm cả Quảng Yên;Sơn Tâygồm cả HƯng Hóavà phủ Hoài Đức;Sơn Sơn Nam đặt tại làng Hiên Nam nêncó tên gọi là trường Hiên 1813, Gia Long choi đặt thêm 2 trườngQuảng Đức gồmThừaThiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định,PhúYên, Khánh Hòa, Gia Định… và Thăng Long Hà Nội gộp thêm cảtrường Kinh Bắc, Sơn Tây,Thái Nguyên và Tuyên năm 1825sau khi có tỉnh Nam Định, trường Vị Hoàngtức Sơn Nam cũ được gọi làtrường Nam năm 1831,Minh Mệnh lại cho định lại 2 trường thi ở Bắc kì1. Trường Hà Nội gồm 10 tỉnhHà Nội, Sơn Tây, BắcNinh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, HưngHóa, Ninh Bình ,Thanh Trường Nam Định gồm 4 tỉnh Nam Định, Hưng Yên,Hải Dương, Quảng người thi đỗ trong các kì thi hương chia làm hai loại Loạimột có các danh hiệu Cống cử, Cống sing, Cống sĩ, Hương tiến, Hươngcống. Những ông cử này sẽ được dự kì thi hội. Loại hai gọi là sinh đồkhông được thi đỗ đầu kì thi hương được gọi là giải nguyênhoặc đầu đời Minh Mệnh1820-1840 đổi các danh hiệu Cống sĩ,Hương tiến thành cử nhân và sinh đồ thành tú tài. Người nào đỗ tú tàihai khoa thì gọi là tú kép, ba khoa thì gọi là tú mền gọi tắt là ông mền,bốn khoa thì gọi là tú đụp gọi tắt là ông dung các kì thi Hương được qui định từ thời Lê Thánh Tôngnhư sau-Kì 1bài thi gồm 5 đề về tứ thư, ngũ kinh-Kì 2bài thi hỏi về chiếu, chế, biểu. Mỗi loại một bài viết theo lốicổ xưa gọi là thể văn tứ lục,hay là văn biền xuôi cóhai vế, vế 6 tiếng, vế 4 tiếng đối 3làm một bài thơ và một bài phú. Thơ làm thể Đường luật, thấtngôn bát cú; phú cũng làm theo cổ thể còn gọi là Tao uyển qui định từ300 tiếng trở 4làm một bài văn gọi là văn sách, đề tài rút ra từ các kinh sử,tử, tập hỏi vềthế vụý thức về việc giúp nước, cứu đời đòi hỏi phải viếtđược 1000 tiếng trở lấy đỗ với tỉ lệ Cống sĩ 1, Sinh đồ dụ năm 1708 ngạchđỗ ở trường Sơn Nam 880 người trong đó Cống sĩ 80 và Sinh đồ năm 1774 gia ngạch cho trường Sơn Nam lây1100 người đỗ. Cống sĩchỉ có 100 còn lại là Sinh HỘI VÀ THI ĐÌNH kiện, nội dung của thi Hội và thi ĐìnhĐây là cửa ải thứ hai đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Đâycũng là cuộc kiểm tra, đánh giá cao nhất đối với các bậc tài năng của vậy thi hội và thi đình được mệnh danh là đại tịthi lớn. Cuộcthi lớn này người xưa quen gọi là đại khoa. Đại khoa gồm hai giai đoạnthi hội và thi hội cũng có 4 kì, người đỗ cả 4 kì sẽ được cấp bằngtiền sĩ. Thi đình còn gọi là điện thí, tức là thi tại triều đình nhà vua. Vuatrực tiếp hỏi bài. Thi đình chỉ để xếp loại các tiến sĩ đã đỗ ở kì thi hội màthôi. Ở thời Lê có một số khoa, vì hoàn cảnh loạn lạc nên không tổ chứcthi đình nhưng vẫn phân loại tiến hội là kì thi quốc gia dành cho những người đã kinh qua thihương và đã có bằng cử nhân và các giám sinh đã mãn khóa ở Quốc người đỗ đạt trong các kì đại khoanhư thế này đều có danhhiệudành cho họ tùy thuộc vào các thời kì khác nhau trong lịch sửTháihọc sinh, Tiến sĩ.Ngoài các khoa thi thường lệ triều đình còn mở các khoa thi độtxuất. Các khoa đặc biệt như thế gọi là Ân học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn1232 đời Trần TháiTông cho đến khoa thi Canh Thìn1400 đời Hồ Quý sĩ bắt đầu có từ khoa thi Nhâm Tuất1442 dời Lê Thái Tôngcho tới khoa thi kết thúc lịch sử khoa cử Nho giáo ở nước ta vào năm KỉMùi 1919 đời Nguyễn Khải sĩ chia làm 6 bậc Thám Hoa.=>Thuộc đệ nhất giáp người đời mệnh danh là tam khôi, có thờigọi là tiến sĩ cập giáp thuộc đệ nhị giápchính bảng, cũng có thời gọi làtiến sĩ xuất Tiến sĩ thuộc đệ tam giáp, gọi là đồng tiến sĩ xuất bảng là sản phẩm khoa cử thời Nguyễn mà bắt đầu xuất hiệntừ khoa thi Kỉ Sửu1829 đời Minh Mệnh. Giữa tiến sĩ và phó bảng đượcqui định về tỉ lệ và ngạch dụ ở khoa thi 1843 đời Thiệu Trị có 25người đỗ, thì chỉ cho 10 người đỗ tiến sĩ, còn 15 phó bảng. Nếu tính 30khoa thi ở Huế 1822-1892 lấy đỗ 560 người thì có 229 tiến sĩ, số cònlại là phó hội và thi đình cả hai kì thi này diễn ra trong vòng khoảng 8tháng mùa xuân thi hội đến mùa thu năm ấy thì thi đình. Còn phép thi hộicũng có 4 kì như thi hương. Kí thứ nhất cho thí sinh làm kinh nghĩa vàkinh truyện mỗi thứ một bài, mỗi bài khoảng 1000 tiếng. Ở kì thứ tư, bàivăn sách qui định tối thiểu 1600 khoa thi nhà Hồ năm 1405lại cho thi thêm kì thứ 5 hỏi về là nét đặc sắc của khoa cử nướcta. Theo sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn, vào năm 1721, triềuđình ra lệnh phải qui định mức điểm cho mỗi kì 1 thí sinh phải đạt8 điểm trên 10 trở lên. Kì 2 phải đạt từ 7 điểm trở lên,kì 3, kì 4 phải đạt từ5 điểm trở tắc chung là mỗi kì thi phải qua hai lần chấm sơkhảo và phúc khảo, đủ điểm thi kì thứ nhất mới được thi kì thứ hai, rồi kìthứ ba, thứ tư cũng áp dụng theo luật đó. Người đỗ được xếp vào hai loạiđỗ chính bảng và đỗ phó bảng. Người đỗ chính bảng được vào thi đình vàđược hưởng quyền vinh quy bái thức tổ chức thi hội và thi đìnhMột số khoa thi buổi đầuthí sinh còn ít ỏi được tổ chức ngay ởtrường Quốc tử giám. Cón về sau giống như thi hương, mỗi lần thi là mộtlần làm làm bằng tre lợp tranh,rào dậu xung quanh bằngnứa. Trường chia làm 3 khu vực Khu nội liêm dùng cho khảo quan ở,khu ngoại biên là nơi ở của các quan giám thị và khu vực dành cho thísinh .Cả trường thi chia làm 8 ô vuông, có một con đường chạy dọc vàcon đường chạy ngang ở chính giữa để chia 8 ô thành 4 phần bằng nhaugọi là đường thập đạo. Giữa trung tâm đường thập đạo, người ta dựngmột ngôi nhà gọi là nhà thập nhà thập đạo trông ra phía trước cómột thông ra ngoài gọi là cửa tiền. Trẹn đường thập đạo theo hàng ngangngười ta dững 3 chòi canh một cái ngay chính giữa và hai cái hai bên đểquan giám thị quan sát thí sinh làm ngoài là háng rào 4 mặt vây kín. Để đảm bảo an toàn cho cuộcthi, triều đình còn sai lính cưỡi ngựa qua lại canh cuộc thi tiến hành có các quan trông coi giám sát gọi là sách nước ta không thấy ghi chép nhiều về quan trường thuộc batriều đại Lí, Trần, Hồ. Nhưng từ thời Lê về sau chức danh quan trườngcủa các khao thi được ghi chép đầy đủ ở bia tiến sĩ văn miếu mà nay tacòn đọc thấy gồm Chánh chủ khảo, phó chủ khảo, một tri cống cử,sáuviên khảo quan đồng khảo,hai viên chánh phó đề điệu, hai viên giámđằng lục. Luật thi hội không chấm trực tiếp bài làm của thí sinh, mà doquan giám đằng lục ở lại phòng, sao chép rõ ràng rồi đưa bản sao đichấm. Trước khi đưa bài đi chấm hai viên giám đằng, một người đọc, một Hòa thượng Thích Thiện Hào thế danh là Trương Minh Đạt, sinh ngày 15 tháng 2 năm Tân Hợi 1911 tại làng An Phú Đông, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định – nay là quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ Ngài là cụ Trương Minh Phát, hiệu Đạt Vinh, thân mẫu là cụ Đinh Thị Cang, Ngài là con một trong gia đình. Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tin Phật, và như đã có sẵn hạt giống xuất trần từ nhiều kiếp, nên Ngài sớm nhận thức được cõi đời là giả tạm, thế sự phù vân, chỉ có đạo giải thoát là cứu cánh. Năm 1927, Ngài xin phép song thân được xuất gia đầu Phật với Tổ Huệ Đăng nơi chùa Thiên Thai – Bà Rịa, được Tổ ban pháp danh Trừng Thanh, năm ấy Ngài vừa tròn 16 tuổi. Sau khi xuất gia Ngài đã nỗ lực tinh cần tu học, dũng mãnh vượt xa các bạn đồng môn, được Bổn sư và huynh đệ vô cùng yêu mến. Năm Canh Ngọ 1930, Ngài được Tổ cho đặc cách thọ tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn chùa Giác Hoằng - Bà Điểm - Hóc Môn, và được ban pháp tự Pháp Quang, pháp hiệu Thiện Hào, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông. Từ năm 1931 đến năm 1939, Tổ mở trường Gia giáo tại Tổ đình Thiên Thai, Ngài đã cùng với các pháp huynh Hòa thượng Minh Nguyệt, Pháp Dõng, Pháp Lan, Minh Tâm, Pháp Hội tu học ở đây trong một thời gian gần 10 năm. Trong thời gian tu học tại Tổ đình Thiên Thai, ngoài những thời khóa tu học, Ngài còn được gần gũi, hầu cận bên Tổ sư Huệ Đăng. Qua đó, Ngài đã nghe được nội dung những buổi tọa đàm giữa Tổ và cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Hồ Chủ tịch về tình hình đất nước. Từ ấy, Ngài đã bắt đầu có ý thức về tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc, giải phóng quê hương và có dự hướng cho tương lai khi đủ điều kiện. Năm Canh Thìn 1940, Ngài trở về quê nhà, xây dựng ngôi chùa Tường Quang tại xã An Phú Đông, do Ngài làm trụ trì và cùng Pháp huynh là Hòa thượng Pháp Dõng chung lo phát triển ngôi Tam bảo này. Năm Ất Dậu 1945, Ngài tham gia hoạt động cách mạng khi Hội Phật giáo Cứu quốc Nam bộ ra đời do Hòa thượng Minh Nguyệt làm Hội trưởng. Kế tiếp, Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định được thành lập, ban lãnh đạo gồm có Hòa thượng Bửu Đăng làm Hội trưởng, Hòa thượng Pháp Dõng làm Phó Hội trưởng, Hòa thượng Bửu Ý làm Thư ký và Ngài làm Ủy viên Kinh tài, trụ sở đặt tại chùa Tường Quang, xã An Phú Đông. Năm Đinh Hợi 1947, do giặc Pháp càn quét, để bảo toàn lực lượng Ngài phải lánh sang chùa Long Huê - Gò Vấp, rồi đến tá túc tại chùa Thiên Phước-Cầu Kho - Sài Gòn, đồng thời được Hòa thượng Thiên Phước giới thiệu Ngài theo học tại trường Phật học Giác Nguyên ở Khánh Hội do Hòa thượng Hành Trụ chủ giảng. Năm Mậu Tý 1948, Ngài đến nhập chúng nơi trường Hạ chùa Hưng Long - Chợ Lớn, do Hòa thượng Huệ Chánh làm Chủ Hương. Năm Kỷ Sửu 1949, Ngài được Hòa thượng Pháp sư Kiểu Lợi mời về giảng pháp tại trường Hương chùa Linh Quang – Mỹ Tho. Năm Canh Dần 1950, uy tín lan rộng sau khóa An cư ở Mỹ Tho, Ngài được Phật tử thỉnh về trụ trì chùa Phước Nguyên – Bến Tre và cuối năm 1950 về trụ trì chùa Bửu An – Mỹ Tho. Năm 1951 đến năm 1954, khi Giáo hội Tăng Già Nam Việt được thành lập, Ngài được chư Sơn thiền đức suy cử làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng Già tỉnh Mỹ Tho. Trong thời gian hoạt động tại Mỹ Tho và Bến Tre, Ngài đã có nhân duyên hội kiến với các bậc cao Tăng thạc đức, giàu lòng cách mạng và yêu nước lãnh đạo Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Bến Tre như Hòa thượng Thái Không, Phước Chí, Thành Lệ, Niệm Nghĩa Năm Nhâm Thìn 1952, Ngài được Hòa thượng Minh Nguyệt, Ủy viên Mặt trận Liên Việt mời dự Đại hội Liên hoan Tôn giáo Dân tộc tại chiến khu Đồng Tháp Mười và theo học chương trình 3 tháng về chính sách của Đảng Lao Động Việt Nam để tham gia công tác tôn giáo vận. Năm Ất Mùi 1955, Ngài được tổ chức điều trở về hoạt động tại vùng Sài Gòn - Gia Định. Trở về Sài Thành, Ngài trú xứ tại chùa Giác Ngạn - Phú Nhuận. Năm Đinh Dậu 1957, Ngài đã được Tăng Ni Phật tử suy cử làm Tổng Thư ký Giáo hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử. Trụ sở Giáo hội đặt tại chùa Long Vân – Bình Thạnh. Năm Kỷ Hợi 1959, chư Sơn thiền đức suy cử Ngài làm Hội trưởng Hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử. Giữa năm 1960, một cơ sở cách mạng bị lộ khiến nhiều người bị bắt, Ngài phải rời chùa Giác Ngạn lánh về miền Tây và được Hòa thượng Pháp Tràng liên lạc với tổ chức đưa Ngài vào chiến khu Đồng Tháp Mười. Đồng thời năm này, Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập, Ngài được mời làm Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây Nam bộ. Năm Tân Sửu 1961, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 1, Ngài được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Năm Nhâm Dần 1962, Ngài chủ trì Đại hội Tăng Ni tỉnh Bến Tre đạt kết quả thành công tốt đẹp. Năm Quý Mão 1963, Ngài tham dự Đại hội Phật giáo Châu Á tại chùa Quảng Tế - Bắc Kinh. Tại Đại hội, Ngài đã tố cáo chính sách đàn áp tôn giáo của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam. Toàn thể Đại hội đã vô cùng cảm động và chú ý theo dõi lời phát biểu của Ngài, đồng thời nhiệt tình ủng hộ các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tại miền Nam trong đó có Phật giáo. Sau đó, Ngài đi thăm một số tỉnh, thành phố của Trung Quốc. Đại hội Phật giáo Châu Á kết thúc, Ngài trở về Hà Nội và đến yết kiến Hồ Chủ Tịch lần đầu tiên. Một tháng sau, Ngài lên đường đi thăm các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm Giáp Thìn 1964, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 2, Ngài được tái cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm Mậu Thân 1968, tại Đại hội Quốc Dân, thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Lộc Ninh - tỉnh Bình Long, Ngài được cử làm Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ. Năm Kỷ Dậu 1969, Ngài tháp tùng phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc và yết kiến Hồ Chủ tịch lần cuối cùng. Năm Nhâm Tý 1972, Ngài dự kiến tham gia Đại hội Phật giáo Châu Á tại Nhật Bản nhưng không thành. Sau đó, Ngài đã đi thăm một số nước Ấn Độ, Népal, Mông Cổ và Liên Xô và trở về nước trong thời điểm hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết ở Paris. Năm Quý Sửu 1973, tỉnh Quảng Trị được giải phóng hơn phân nửa, văn phòng và nhà khách Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt tại Cam Lộ, Ngài được cử làm Ủy viên Thường trực để đón tiếp các phái đoàn khách quốc tế đến thăm Chính phủ và văn phòng. Cuối năm 1973, Ngài được cử làm Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Tù chính trị miền Nam Việt Nam để đôn đốc việc thi hành Hiệp định Paris về tù binh. Năm Ất Mão 1975, sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Ngài trở về thành phố Hồ Chí Minh, phụ trách công tác dân vận về tôn giáo của Chính phủ. Tháng 8 năm 1975, Ngài tích cực vận động thành lập Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Minh Nguyệt làm Chủ tịch. Đến năm 1977, Ngài được suy cử bổ sung làm Phó chủ tịch Thường trực Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 1976, Ngài là đại biểu tham dự Đại hội Phật giáo châu Á lần thứ 4 được tổ chức tại Nhật Bản. Giữa năm 1976, trong cuộc bầu cử Quốc hội chung cả nước, Ngài đã đắc cử đại biểu Quốc hội khóa VI, đồng thời được cử làm Ủy viên Ủy ban Văn hóa Giáo Dục, Ủy viên Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Cuối năm 1976, Ngài tham dự Hội nghị Hiệp thương thống nhất 3 tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam miền Bắc, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình thành một tổ chức thống nhất là Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; Ngài được cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ. Năm Canh Thân 1980, Ngài được tái đắc cử làm Ủy viên Thường vụ Quốc hội. Cùng năm, trong bối cảnh đất nước được thống nhất, giang sơn nối liền một cõi, Bắc Nam sum họp một nhà, để đáp ứng nguyện vọng thống nhất Phật giáo Việt Nam của Tăng Ni Phật tử cả nước, Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, gồm chư tôn giáo phẩm của 9 tổ chức hệ phái Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban; Ngài được cử làm Ủy viên Thường trực của Ban vận động. Năm Tân Dậu 1981, Ngài làm Trưởng đoàn đại biểu Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, tham dự Đại hội đại biểu Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại Hà Nội. Tại Đại hội, Ngài được suy tôn làm Thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử làm Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vào năm 1982, Đại hội thành lập Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức. Ngài được Đại hội suy cử làm Phó Ban thường trực và Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Trưởng ban Trị sự. Năm Giáp Tý 1984, theo sự thỉnh cầu của Ban Quản trị và Phật tử chùa Xá Lợi; Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm Ngài làm Viện chủ chùa Xá Lợi - quận 3 cho đến ngày viên tịch. Năm Đinh Mão 1987, Đại hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ II được tổ chức. Tại Đại hội, Ngài được suy cử làm Trưởng Ban trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày xả bỏ báo thân. Năm Nhâm Thân 1992, tại Đại hội Phật giáo tòan quốc lần III, Ngài được Đại hội suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày trở về cõi Phật. Năm Quý Dậu 1993, sau khi Giáo hội tiếp nhận cơ sở Quảng Đức, văn phòng 2 Trung ương Giáo hội được dời từ chùa Xá Lợi về trụ sở mới – Thiền viện Quảng Đức - quận 3, Ngài đã được Giáo hội bổ nhiệm làm Viện chủ Thiền viện Quảng Đức. Trong những năm từ 1983 đến 1990, Ngài được Thành hội Phật giáo cử làm Thiền chủ các khóa Hạ do Thành hội tổ chức tại chùa Xá Lợi và Vĩnh Nghiêm để hướng dẫn chư Tăng tu học và làm Trưởng Ban chỉ đạo An cư kiết Hạ hàng năm. Từ năm 1985, sau khi Hòa thượng Thích Minh Nguyệt viên tịch, Ngài đảm nhận chức vụ Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ – Cơ quan ngôn luận của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh cho đến năm 1997. Từ năm 1987 đến 1997, Ngài luôn được cử làm Trưởng Ban Tổ chức các Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni tu học và hành đạo. Đối với Tổ đình Thiên Thai, Ngài đã cùng với môn hạ, Tăng Ni, Phật tử nỗ lực trùng tu ngôi Tổ đình và tái thiết ngôi Thiên Bửu Tháp, là dấu ấn của Tổ Huệ Đăng đã dày công xây dựng; công trình được thành tựu viên mãn trở thành thắng cảnh trang nghiêm, xứng đáng vị trí ngôi Tổ đình lịch sử. Qua đó hàng năm đều mở khóa An cư kiết Hạ để Tăng Ni tựu về tu học, đồng thời thành lập trường Sơ cấp Phật Học để đào tạo Tăng Ni tài đức của Phật giáo tại địa phương. Từ năm 1981 đến năm 1996, Ngài luôn luôn là bóng cây đại thụ che mát Tăng Ni Phật tử, thường xuyên tham dự và Chứng minh các Đại hội, các Lễ hội cũng như sinh hoạt Phật sự tại các tỉnh, Thành hội Phật giáo trong cả nước, góp phần xây dựng phát triển Giáo hội ngày càng trang nghiêm, vững mạnh trong lòng dân tộc . Với công đức cao dày đã hiến dâng cho đạo pháp và dân tộc, Ngài đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng thưởng các huân chương cao quý - Huân chương Hồ Chí Minh. - Huân chương Độc Lập hạng Nhì. - Huân chương Kháng Chiến hạng Nhất. - Huy chương Vì Sự Nghiệp Đại Đoàn Kết Toàn Dân. Năm Bính Tý 1996, Ngài lâm bệnh hiểm nghèo, mặc dù cơn bệnh hoành hành, nhưng Ngài vẫn sáng suốt và nhất niệm, nhớ kỹ và nhớ rõ tất cả Phật sự, thường xuyên nhắn nhủ chư tôn Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử trong Giáo hội, Thành hội Phật giáo và môn hạ hãy hòa hợp đoàn kết phát huy truyền thống phụng đạo yêu nước của Phật giáo Việt Nam, góp phần làm tốt đạo đẹp đời. Sức khỏe của Ngài càng lúc càng giảm dần như dầu hết, đèn tắt. Ngài xả báo thân và an tường thị tịch vào lúc 9 giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1997 nhằm ngày 16 tháng 6 năm Đinh Sửu tại chùa Xá Lợi, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Ngài trụ thế 86 năm, Hạ lạp trải qua 66 mùa An cư kiết Hạ. Hòa thượng Thích Thiện Hào, là một hình ảnh biểu hiện trọn vẹn sự gắn bó hài hòa giữa đạo pháp và dân tộc. Một chuỗi đời hành đạo hy sinh, phục vụ vị tha vô ngã, một nhân cách lớn của Tăng sĩ Việt Nam, đã thắp sáng truyền thống yêu nước, trí dũng bất khuất của lịch sử Phật giáo Việt Nam. [CSC] Khoa cử là con đường tiến thân của kẻ sỹ. Cho dù có tài, có đức nhưng không đỗ đạt thì kẻ sỹ suốt đời chẳng được tuyển dụng. Bởi vậy, dù nghèo đói ai cũng cố cho con cái học hành để được vẻ vang với hàng tổng, làng mạc và quan trọng hơn là để được làm quan. Nói đến chế độ khoa cử ở nước ta thì phải tính đến một chặng đường dài mười thế kỉ đã diễn ra dưới thời phong kiến mà khoa mở đầu là năm Ất Mão 1075 đời Lí và khoa kết thúc vào năm Kỉ Mùi 1919 đời Khải Định. Về thể lệ thi buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lí khoảng cách giữa các khoa thi thường là 12 năm. Tới khoa thi Kỉ Hợi 1239 đời Trần Thái Tông, lệ thi mới được định hẳn 7 năm một kì. Sang nhà Lê đời Thái Tông cho đổi lại 3 năm một kì. Lệ thi được chấp nhận suốt cả một thời kì Hậu Lê cho tới cuối thời nhà Nguyễn. Khoa cử thời phong kiến gồm ba kì thi quan trọng bậc nhất được coi như ba cửa ải lớn để bước tới các bậc thang quan chức đầy danh vọng của các nho sĩ. Đó là thi Hương Hương thí, thi Hội Hội thí và thi Đình Đình thí. Quá trình học tập và điều kiện dự thi Ở nước ta khi xưa học trò bắt đầu đi học gọi là sơ học; học các sách Sơ học vấn tân hỏi bến, Tam tự kinh Kinh ba tiếng, Tứ tự kinh Kinh bốn tiếng, Ngũ ngôn Văn vần năm tiếng. Tập làm văn khi đầu là câu đối 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng…biết phân biệt vần trắc, vần bằng. Về đức dục học sinh phải lễ phép kính trên, nhường dưới, thực hiện câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Chừng 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử, học Bách gia, Chư tử, Cửu lưu Chín dòng tư tưởng Cổ đại Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia; học lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng, tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng gọi là câu đối thơ, 8 tiếng trở lên là câu đối phú và tập làm văn nghĩa. Hình thức trường làng phần lớn là trường tư tư thục. Thầy giáo trường làng được mệnh danh là thầy đồ. Thầy đồ do dân tự chọn. Họ gồm những người hỏng thi, hoặc thi đỗ mà không muốn ra làm quan, người đã nghỉ việc… Nhà nước không đài thọ trường làng mà chỉ mở trường từ cấp huyện, phủ và tỉnh. Quan quản lí giáo dục ở huyện gọi là Huấn đạo, ở phủ gọi là Giáo thụ, còn danh hiệu Đốc học là quan cấp tỉnh. Buổi đầu của nhà Hậu Lê năm 1428, Lê Lợi xuống chiếu cho thiên hạ mở trường đào tạo nhân tài. Ở kinh đô có Quốc tử giám, ở địa phương thì có các phủ học, huyện học. Nhà vua tự mình lựa chọn những người tuấn tú cho vào tại các trường ở kinh đô. Nhà vua ra lệnh cho các quan Giáo thụ, Huấn đạo chọn rộng rãi con em người lương thiện cho vào học các trường phủ, huyện. Đầu thời Lê Trung hưng, học sinh trường huyện mỗi kì học phải nộp 5 tiền mạch gọi là tiền minh kinh. Loại trường này chỉ dành riêng cho học sinh đã có kiến thức năm nhà trường đều tổ chức cho học sinh thi chất lượng vào tháng tư âm lịch gọi là khảo khóa. Khảo khóa gồm 3 kì, ai đậu cả 3 kì gọi là khóa sinh. Để chuẩn bị cho các kì thi hương các anh khóa này được miễn phu phen tạp dịch một năm và họ phải dự kì thi tiến ích vào tháng 11 âm lịch, nhằm kiểm tra sự tiến bộ của họ trước khi bước vào kì thi Hương năm sau. Trước kì thi Hương độ 4 tháng, các anh khóa lại phải vượt qua một kì thi sát hạch nữa. Thể lệ thi sát hạch phải do quan đốc ở tỉnh duyệt. Ai không đủ điểm ở kì thi này sẽ không được thi Hương. Tới kì thi hương nếu thực tế chất lượng học sinh khác với chất lượng khảo hạch, thí sinh không làm nổi bài, thậm chí bỏ giấy trắng thì các quan kiểm tra bị trừng phạt. Nếu có từ 5 thí sinh không đạt yêu cầu trở lên thì bị cách chức. Giáo thụ, huấn đạo có thể bị giáng mấy cấp. Hồ sơ của những người dự thi kì thi Hương phải có giấy chứng thực lí lịch của địa phương và gửi về bộ Lễ trước kì thi một tháng. Bọn lưu manh, côn đồ tuyệt nhiên không được ghi vào danh sách này. Lệ này hồi xưa gọi là Bảo kết. Vào thời cuối Lê những người còn ở trong quân tịch không được dự thi, con em phường chèo, phường hát cũng không được dự thi. Triều đình nhà Nguyễn còn qui định những học sinh đang chịu tang bố và ông nội cũng không được dự thi. Địa điểm và nội dung của cuộc thi Thi Hương là kì thi của một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi Hội và thi Đình. Thời Lê người ta thấy có 9 trường thi Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Hóa. Sang thời Nguyễn có 7 trường Nghệ An, Thanh Hóa gồm cả Ninh Bình, Kinh Bắc Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên gồm cả Cao Bằng, Lạng Sơn, Hải Dương gồm cả Quảng Yên, Sơn Tây gồm cả Hưng Hóa và phủ Hoài Đức và Sơn Nam. Trường Sơn Nam đặt tại làng Hiên Nam nên có tên gọi là Trường Hiên Nam. Năm 1813, Gia Long cho đặt thêm 2 trường Quảng Đức gồmThừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Định… và Thăng Long Hà Nội gộp thêm cả trường Kinh Bắc, Sơn Tây, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Đến năm 1825 sau khi có tỉnh Nam Định, trường Vị Hoàng tức Sơn Nam cũ được gọi là trường Nam Định. Đến năm 1831 Minh Mạng lại cho định lại 2 trường thi ở Bắc kì Trường Hà Nội gồm 10 tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Ninh Bình,Thanh Hóa. Trường Nam Định gồm 4 tỉnh Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên. Những người thi đỗ trong các kì thi Hương chia làm hai loại Loại một có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống. Những ông cử này sẽ được dự kì thi Hội. Loại hai gọi là sinh đồ không được thi Hội. Người đỗ đầu kì thi Hương được gọi là Giải nguyên hoặc Đầu xứ. Đến đời Minh Mạng 1820 – 1840 đổi các danh hiệu Cống sĩ, Hương tiến thành Cử nhân và Sinh đồ thành Tú tài. Người nào đỗ Tú tài hai khoa thì gọi là Tú Kép, ba khoa thì gọi là Tú Mền gọi tắt là Ông Mền, bốn khoa thì gọi là Tú Đụp gọi tắt là Ông Đụp. Nội dung các kì thi Hương được qui định từ thời Lê Thánh Tông như sau Kì 1 bài thi gồm 5 đề về Tứ thư, Ngũ kinh. Kì 2 bài thi hỏi về chiếu, chế, biểu. Mỗi loại một bài viết theo lối Cổ thể. Ngày xưa gọi là thể văn tứ lục, hay là văn biền ngẫu. Văn xuôi có hai vế, vế 6 tiếng, vế 4 tiếng đối nhau. Kì 3 làm một bài thơ và một bài phú. Thơ làm thể Đường luật, thất ngôn bát cú; phú cũng làm theo Cổ thể còn gọi là Tao uyển qui định từ 300 tiếng trở lên. Kì 4 làm một bài văn gọi là văn sách, đề tài rút ra từ các kinh sử, tử, tập, hỏi về thế vụ ý thức về việc giúp nước, cứu đời, đòi hỏi phải viết được 1000 tiếng trở lên. Ngạch lấy đỗ với tỉ lệ Cống sĩ 1, Sinh đồ 10. Ví dụ năm 1708 ngạch đỗ ở trường Sơn Nam 880 người trong đó Cống sĩ 80 và Sinh đồ 800. Đến năm 1774 gia ngạch cho trường Sơn Nam lấy người đỗ. Cống sĩ chỉ có 100, còn lại là Sinh đồ. Thi Hội và Thi Đình Thi Hội và thi Đình là các kỳ thi để đánh giá tài năng cao nhất nhằm chọn nhân tài cho đất nước nên gọi là Đại khoa. Thí sinh thi Hội phải qua bốn môn thi mỗi môn gọi là một trường. Thí sinh phải đủ điểm ở trường một mới vào được trường hai… Đến trường thứ tư, người nào đủ điểm chuẩn quy định gọi là Trúng cách, tức là đỗ thi Hội. Người cao điểm nhất trong số thi đỗ gọi là Hội nguyên. Danh sách tiếp theo cũng ghi theo thứ tự điểm số từ trên xuống dưới. Nhưng thứ tự này kể cả Hội nguyên cũng chưa phải là học vị chính thức. Sau vài ngày, có khi vài tuần những người thi trúng cách được gọi vào hoàng cung để thi tiếp gọi là thi Đình Điện thí, thi tại sân triều đình do vua trực tiếp ra đề thi và tự tay phê lấy đỗ. Ngày tuyên bố kết quả, các quan tân khoa được tiếp đãi lễ Đại triều tại Điện Thái Hòa, được ban mũ áo, ban yến ở vườn Quỳnh Lâm, cho cưỡi ngựa đi xem kinh thành, phố xá. Sau đó cho về vinh quy bái tổ. Làng nào có người đỗ đại khoa phải đón rước linh đình. Theo phong tục, đỗ tú tài một làng đi rước, đỗ cử nhân một tổng đi rước, đỗ đại khoa một huyện đi rước, dân hàng tổng phải làm dinh nghè cho quan ở và người đỗ đạt cũng phải làm lễ tạ ơn dân làng và thày dạy. Triều đình cho quan Tuyên lô xướng danh và yết bảng ba ngày tại lầu Phú văn, cho dựng bia, chép sách lưu danh Tiến sỹ để nêu gương muôn thuở. Điều kiện, nội dung của thi Hội và thi Đình Đây là cửa ải thứ hai đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Đây cũng là cuộc kiểm tra, đánh giá cao nhất đối với các bậc tài năng của đất nước. Bởi vậy thi Hội và thi Đình được mệnh danh là đại tị thi lớn. Cuộc thi lớn này người xưa quen gọi là đại khoa. Đại khoa gồm hai giai đoạn thi Hội và thi Đình. Thi Hội cũng có 4 kì, người đỗ cả 4 kì sẽ được cấp bằng Tiền sĩ. Thi Đình còn gọi là Điện thí, tức là thi tại triều đình nhà vua; vua trực tiếp hỏi bài. Thi Đình chỉ để xếp loại các tiến sĩ đã đỗ ở kì thi Hội mà thôi. Ở thời Lê có một số khoa, vì hoàn cảnh loạn lạc nên không tổ chức thi Đình nhưng vẫn phân loại Tiến sĩ. Thi Hội là kì thi quốc gia dành cho những người đã kinh qua thi Hương và đã có bằng Cử nhân và các giám sinh đã mãn khóa ở Quốc tử giám. Những người đỗ đạt trong các kì đại khoa như thế này đều có danh hiệu dành cho họ tùy thuộc vào các thời kì khác nhau trong lịch sử Thái học sinh, Tiến sĩ. Ngoài các khoa thi thường lệ triều đình còn mở các khoa thi đột xuất. Các khoa đặc biệt như thế gọi là Ân khoa. Thái học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn 1232 đời Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn 1400 đời Hồ Quý Li. Tiến sĩ bắt đầu có từ khoa thi Nhâm Tuất 1442 đời Lê Thái Tông cho tới khoa thi kết thúc lịch sử khoa cử Nho giáo ở nước ta vào năm Kỉ Mùi 1919 đời Khải Định. Tiến sĩ chia làm 6 bậc Trạng nguyên Bảng nhãn Thám hoa Hoàng giáp thuộc đệ nhị giáp chính bảng, cũng có thời gọi là Tiến sĩ Xuất thân Tiến sĩ thuộc đệ tam giáp, gọi là Đồng Tiến sĩ Xuất thân Phó bảng là sản phẩm khoa cử thời Nguyễn mà bắt đầu xuất hiện từ khoa thi Kỉ Sửu 1829 đời Minh Mạng. Giữa Tiến sĩ và Phó bảng được qui định về tỉ lệ và ngạch đỗ. Ví dụ ở khoa thi 1843 đời Thiệu Trị có 25 người đỗ, thì chỉ cho 10 người đỗ Tiến sĩ, còn 15 Phó bảng. Nếu tính 30 khoa thi ở Huế 1822-1892 lấy đỗ 560 người thì có 229 Tiến sĩ, số còn lại là Phó bảng. Ba bậc đầu thuộc đệ nhất giáp người đời mệnh danh là Tam khôi, có thời gọi là Tiến sĩ Cập đệ. Thi Hội và thi Đình cả hai kì thi này diễn ra trong vòng khoảng 8 tháng mùa xuân thi Hội đến mùa thu năm ấy thì thi Đình. Còn phép thi Hội cũng có 4 kì như thi Hương. Kì thứ nhất cho thí sinh làm kinh nghĩa và kinh truyện mỗi thứ một bài, mỗi bài khoảng tiếng. Ở kì thứ tư, bài văn sách qui định tối thiểu tiếng. Riêng khoa thi nhà Hồ năm 1405 lại cho thi thêm kì thứ 5 hỏi về toán. Đó là nét đặc sắc của khoa cử nước ta. Theo sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn, vào năm 1721, triều đình ra lệnh phải qui định mức điểm cho mỗi kì thi. Kì 1 thí sinh phải đạt 8 điểm trên 10 trở lên. Kì 2 phải đạt từ 7 điểm trở lên. Kì 3, kì 4 phải đạt từ 5 điểm trở lên. Nguyên tắc chung là mỗi kì thi phải qua hai lần chấm sơ khảo và phúc khảo, đủ điểm thi kì thứ nhất mới được thi kì thứ hai, rồi kì thứ ba, thứ tư cũng áp dụng theo luật đó. Người đỗ được xếp vào hai loại đỗ chính bảng và đỗ phó bảng. Người đỗ chính bảng được vào thi đình và được hưởng quyền vinh quy bái tổ. Cách thức tổ chức thi Hội và thi Đình Một số khoa thi buổi đầu thí sinh còn ít ỏi được tổ chức ngay ở trường Quốc tử giám. Cón về sau giống như thi Hương, mỗi lần thi là một lần làm trường. Trường làm bằng tre lợp tranh, rào giậu xung quanh bằng nứa. Trường chia làm 3 khu vực Khu nội liêm dùng cho khảo quan ở, khu ngoại biên là nơi ở của các quan giám thị và khu vực dành cho thí sinh. Cả trường thi chia làm 8 ô vuông, có một con đường chạy dọc và con đường chạy ngang ở chính giữa để chia 8 ô thành 4 phần bằng nhau gọi là Đường thập đạo. Giữa trung tâm Đường thập đạo, người ta dựng một ngôi nhà gọi là Nhà thập Nhà thập đạo trông ra phía trước có một thông ra ngoài gọi là cửa tiền. Trên đường thập đạo theo hàng ngang người ta dựng 3 chòi canh một cái ngay chính giữa và hai cái hai bên để quan giám thị quan sát thí sinh làm bài. Bên ngoài là háng rào 4 mặt vây kín. Để đảm bảo an toàn cho cuộc thi, triều đình còn sai lính cưỡi ngựa qua lại canh phòng. Khi cuộc thi tiến hành có các quan trông coi giám sát gọi là quan trường. Sử sách nước ta không thấy ghi chép nhiều về quan trường thuộc ba triều đại Lí, Trần, Hồ. Nhưng từ thời Lê về sau chức danh quan trường của các khao thi được ghi chép đầy đủ ở Bia Tiến sĩ Văn miếu mà nay ta còn đọc thấy gồm chánh chủ khảo, phó chủ khảo, một tri cống cử, sáu viên khảo quan đồng khảo, hai viên chánh phó đề điệu, hai viên giám đằng lục. Luật thi Hội không chấm trực tiếp bài làm của thí sinh, mà do quan giám đằng lục ở lại phòng, sao chép rõ ràng rồi đưa bản sao đi chấm. Trước khi đưa bài đi chấm hai viên giám đằng, một người đọc, một người soát xem có sai sót gì không. Công việc như vậy ở lại phòng gọi là đối độc. Quan đề điệu phát bài cho nội liêm chấm trước, ngoại biên chấm sau. Các quan nội liêm ngoài nhiệm vụ sơ khảo còn có nhiệm vụ theo dõi phát hiện mọi tệ lậu trường thi. Quan giám thị có chức trách giữ gìn an ninh cả phạm vi trường thi. Quan trường ở kì thi Đình, ấn tượng sâu sắc nhất đối với các sĩ tử vẫn là những vị hoàng đế và suốt trong lịch sử khoa cử nước ta, nhất là từ nhà Lê về sau thì các ông vua vẫn là người hỏi thi cuối cùng để các nho sĩ bước tới hoạn lộ và bậc thang danh vọng. Thi Đình được tổ chức ngay trong triều của nhà vua. Đến ngày thi, Bộ Lễ phải biết đặt ngự tọa chỗ vua ngồi ở giữa điện Cần Chánh. Sau lễ khai mạc bá quan văn võ chia ban đứng trực sẵn ở bên thềm điện, nghi vệ, cờ xí trang hoàng lộng lẫy. Hồi trống thứ nhất nổi lên báo hiệu cho các quan văn, võ sửa mũ, áo và tiến sát cửa điện đứng chầu. Hồi trống thứ hai, kiệu vua ngự giá ra giữa điện. Quan tự ban tổ chức dẫn các quan văn chầu bên tả, các quan võ chầu bên hữu. Các thí sinh đứng sau hàng quan văn, khi vua ra phải lạy 5 vái. Từng thí sinh được gọi vào trước ngự tọa để nhận giấy bút và phòng làm bài. Vua chấm duyệt từng quyển của thí sinh. Ngày công bố kết quả, các quan tân khoa được tiếp đãi lễ triều ở điện Thái Hòa, các quan văn, võ chia ban mũ áo chỉnh tề chầu vua ở ngự điện. Các vị tân khoa được hướng dẫn quì ở phía trái thềm điện để lĩnh mũ, áo vua ban. Quan tuyên lễ xướng tên và yết bảng tại lầu Phu văn 3 ngày. Vua đãi yến các vị tân khoa tại sảnh đường bộ Lễ. Bộ Lễ phát cho mỗi tân khoa một cành trâm cài đầu, cho thăm Vườn ngự uyển, cho cưỡi ngựa đi thăm phố xá, kinh thành, nghi thức này có thời chỉ dành cho tam khôi và vinh quy bái tổ. Triều đình ra lệnh cho dân chúng các địa phương có người đỗ Tiến sĩ phải đón rước linh đình và dân hàng tổng phải làm đình nghè cho ở. Vậy nên danh từ ông nghè chỉ các tiến sĩ cũng từ đó mà ra. Triều đình còn cho dựng bia, chép sách lưu danh Tiến sĩ và để nêu gương muôn thuở. Lựa chọn nhân tài là mục đích của các khoa cử dưới triều đại phong kiến. Sự hùng mạnh của một triều đại cũng tuỳ thuộc vào chính sách dùng người của triều đại đó. Bài ký bia Tiến sỹ khoa Đại Bảo Nhâm Tuất do Hàn lâm viện thừa chỉ Thân Nhân Trung soạn có đoạn viết “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sỹ, bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí là việc làm cần kíp. Bởi vì kẻ sỹ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế, cho nên được quý chuộng không biết dường nào…”. >> Xem thêm Tìm hiểu Hệ thống Khoa cử Việt Nam thời Phong kiến Trong lịch sử khoa cử nước nhà, kể từ khi nhà Lý mở khoa thi đầu tiên vào năm Ất Mão 1075 gọi là “Tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường” cho tới khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn 1919 nước ta có người đỗ đại khoa. Đỗ đầu khoa thi năm Ất Mão 1075 là Lê Văn Thịnh, người làng Đông Cứu, huyện Gia Định, tỉnh Bắc Ninh trở thành người khai khoa của các nhà khoa bảng Việt Nam. Đến khoa thi năm Ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù 10 1185 đời Lý Cao Tông, một trong ba người đỗ đầu là Đỗ Thế Diên còn gọi là Đỗ Thế Bình, người Cổ Liêu, huyện Đường Hào nay thuộc xã Nghĩa Hiệp, huyện Mỹ Văn là người khai khoa của tỉnh Hưng Yên. Khoa cử thời phong kiến có 3 kỳ thi được coi như 3 cửa ải, bước đường công danh của sỹ tử. Đó là kỳ thi Hương và thi Hội, thi Đình.

thi hương hội đình