Là phương pháp đưa những dưỡng chất vào sâu trong da. Giúp da tái tạo, phục hồi hư tổn. Trẻ hóa và trắng sáng đồng nhất. Tổ hợp dưỡng chất đưa vào da có thành phần chính là hyaluronic acid, được bổ sung thêm các vitamin, glutathion và amino acids. Khi được cung cấp trực
Sàn xi măng mài có độ bền cao và vẻ đẹp độc đáo. Mài sàn xi măng là một phương pháp dùng máy đánh bóng nền bê tông với công suất lớn. Kết hợp cùng các đầu số đĩa mài bóng và hóa chất, nhằm làm gia tăng độ cứng bề mặt sàn. Sàn mài có độ bằng phẳng, sáng
Tối ưu SEO Onpage giúp cho URL càng ngắn khả năng website được tăng thứ hạng càng cao. Hãy để từ khóa có lượng search cao nhất của bạn vào URL. Để URL chuẩn SEO Onpage cần 2 yếu tố: URL liên quan bài viết và có chứa từ khóa chính. Ngắn gọn và đủ ý (thông thường URL trung
"Ưu tiên thực sự đối với tôi là chúng tôi có thể làm gì trong những hạn chế của hệ thống để nhanh chóng giải quyết vấn đề tồn đọng đó," bà
Chỉ cần với 1 giọt đồng đỏ nguyên chất tinh khiết không dưới 99,5%, bạn có thể dễ dàng kéo dài hang và dát mỏng giống như 1 tờ giấy. 2. Ưu điểm và nhược điểm khi sử dụng đồ đồng đỏ Đồng đỏ được sử dụng phổ biến làm các đồ thủ công mỹ nghệ tất đều nhờ vào những ưu điểm vượt trội như: Bộ 3 Bát Hương Bằng Đồng Đỏ 2.1 Ưu điểm
Khách sạn ở Nho Quan. Cuc Phuong Hotel cung cấp chỗ nghỉ thân thiện với vật nuôi với Wi-Fi miễn phí toàn khuôn viên ở huyện Nho Quan, cách thành phố Ninh Bình 25 km. Luang and his family were very lovely and made our stay very conftable ans easy. They came to pick us up by car at the hostel we were staying in
Từ tháng 12/2000, bà bắt đầu làm việc tại BIDV; từ tháng 08/2010 là Phó Giám đốc Chi nhánh BIDV Sở giao dịch 1; từ tháng 04/2012 là Giám đốc Ban Phát triển Ngân hàng bán lẻ; từ tháng 06/2015 là Giám đốc Chi nhánh BIDV Hà Nội; từ tháng 3/2020 là Phó Tổng Giám đốc BIDV.
aFAy. Người sống đời sống gia đình không phải là vị tu sĩ của giáo hội, gọi là người tại gia gahaṭṭha hay cư sĩ gihi. Những cư sĩ theo đạo Phật được gọi là U-bà-tắc và U-bà-di. Đó là tiếng đọc âm của danh từ Phạn ngữ Upāsaka và Upāsikā. Upāsaka âm là U-bà-tắc, dịch là “Người phụng sự, người cận sự”, danh từ này chỉ cho nam cư sĩ nên được gọi là “Cận sự nam”. Người ta cũng thường gọi người nam cư sĩ trong Phật giáo là “Thiện nam”, nhưng danh từ này không dịch đúng với tiếng Upāsaka. Upāsikā âm là U-bà-di, cũng có nghĩa là người phụng sự, người cận sự. Tiếng Upāsikā và Upāsaka đều có một gốc từ “Upa + ās”. Danh từ Upāsikā dùng để chỉ cho nữ cư sĩ nên được gọi là cận sự nữ. Người ta thường gọi nữ cư sĩ trong Phật giáo là “Tín nữ”, đó cũng không phải dịch đúng với tiếng Upāsikā. Hai danh từ cận sự nam và cận sự nữ đúng nghĩa với tiếng upāsaka và upāsikā U-bà-tắc, U-bà-di hơn là gọi Thiện nam và Tín nữ. Người ta quan niệm người nam làm điều thiện nhiều hơn người nữ, nên mới gọi là Thiện nam; và người nữ thì có đức tin mạnh hơn người nam, nên gọi là Tín nữ. Thật ra quan niệm này không đúng, vì nếu người không có đức tin thì làm sao tạo thiện sự được? Người nam cũng có đức tin mạnh. Cũng như đối với người nữ không những chỉ có đức tin, mà người nữ vẫn tích cực làm điều thiện vậy. Và đó gọi là cận sự nam và cận sự nữ đúng hơn. Ý nghĩa cận sự nam và cận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩ có niềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
Chủ đề ưu bà tắc là gì Ứng dụng ưu bà tắc đã trở thành một công cụ vô cùng hữu ích trong quản lý thời gian của người dùng. Với tính năng giúp giới hạn thời gian sử dụng các ứng dụng và trang web, người dùng có thể tập trung hơn và làm việc hiệu quả hơn. Ngoài ra, công cụ còn cung cấp thông tin về thói quen sử dụng thiết bị điện tử của người dùng, giúp họ nhận ra và thay đổi các hành vi không cần thiết. Sử dụng ưu bà tắc là một cách tuyệt vời để cải thiện sự tập trung và tận dụng thời gian hiệu lụcƯu bà tắc là gì trong đạo Phật? Ai được gọi là Ưu bà tắc theo đạo Phật? Ưu bà tắc và Ưu bà di có ý nghĩa gì trong Phật giáo? Làm thế nào để trở thành Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di trong đạo Phật? Tại sao đạo Phật lại gọi người tu tại gia là Ưu bà tắc?YOUTUBE ƯU BÀ DI VÀ ƯU BÀ TẮC 2023Ưu bà tắc là gì trong đạo Phật? Ưu bà tắc là một thuật ngữ tiếng Phạn được sử dụng trong đạo Phật để chỉ người nam cư sĩ. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, thuật ngữ này thường được hiểu là cả nam và nữ cư sĩ tại gia. Thuật ngữ tương ứng cho nữ cư sĩ tại gia trong đạo Phật là Ưu bà di. Ưu bà tắc và Ưu bà di là các thuật ngữ quan trọng trong giới Phật tử tại gia, đặc biệt là trong đạo Phật Mahayana. Các cư sĩ tại gia ở giới này được coi là giới cao nhất của Phật tử tại gia, và có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và truyền bá giá trị Phật giáo cho các thế hệ sau. Để đạt được giới của Ưu bà tắc hay Ưu bà di, các cư sĩ tại gia cần tu tập và rèn luyện những phẩm chất cần thiết của một Phật tử, như sự tịnh độ, lòng từ bi, sự thông cảm và lòng nhân ái. Bên cạnh đó, các cư sĩ tại gia cũng cần cống hiến cho việc truyền bá Phật pháp và giúp đỡ những người cần thiết. Trên đây là thông tin về Ưu bà tắc trong đạo Phật. Hi vọng sẽ giúp ích cho những ai quan tâm tới đạo Phật và các thuật ngữ liên quan đến Phật được gọi là Ưu bà tắc theo đạo Phật? Theo đạo Phật, người được gọi là Ưu bà tắc là những người thực hành và tu tập giới Bồ tát trong Giới luật. Việc tu tập giới Bồ tát là một trong những phương pháp để tu tập tâm linh và giúp con người thoát khỏi vòng luân hồi. Để trở thành Ưu bà tắc, người tu tập giới Bồ tát phải thực hiện đầy đủ 10 giới và tu tập theo tinh thần Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh. Việc trở thành Ưu bà tắc yêu cầu sự tập trung và kiên nhẫn trong việc tu tập và tự hoàn thiện bản bà tắc và Ưu bà di có ý nghĩa gì trong Phật giáo? Ưu bà tắc và Ưu bà di là cụm từ tiếng Phạn trong Phật giáo, và có ý nghĩa là những người cư sĩ phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp. Cụ thể, Ưu bà tắc là danh xưng dành cho nam cư sĩ, có nghĩa là \"thiện nam, cận sự nam\", trong khi Ưu bà di là danh xưng dành cho nữ cư sĩ, có nghĩa là \"tín nữ, cận sự nữ\". Trong Phật giáo, cả nam và nữ đều có thể trở thành Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di bằng cách phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp. Các cư sĩ này thường được coi là những người đặc biệt trong Phật giáo, có trách nhiệm và nhiệm vụ cao cả trong việc giải thoát đời đời kiếp kiếp của chính mình và của người khác. Ngoài ra, Ưu bà tắc và Ưu bà di cũng là những nhân vật quan trọng trong nhiều kinh điển Phật giáo, được đề cập đến nhiều trong các bài giảng của các vị cao thế nào để trở thành Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di trong đạo Phật? Để trở thành Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di trong đạo Phật, bạn cần tu tập và theo đuổi các giá trị đạo đức của Phật giáo. Dưới đây là một số bước cơ bản để bạn có thể áp dụng Bước 1 Tìm hiểu về đạo Phật và giác ngộ. Bạn có thể đọc các tài liệu về Phật giáo, tham gia các câu lạc bộ Phật giáo hoặc học từ các giảng viên hoặc người tu tập có kinh nghiệm. Bước 2 Học cách tập trung và thiền định để giảm bớt căng thẳng và khắc phục các tâm lực tiêu cực. Bạn có thể tìm hiểu về các phương pháp thiền như thiền Vipassana, thiền Tịnh độ hay thiền Truyền thống. Bước 3 Tu tập các giá trị đạo đức của Phật giáo như lòng từ bi, lòng nhân ái, sự tha thứ và sự kiên nhẫn. Bạn có thể đọc các sách về đạo đức Phật giáo hay học các bài giảng của các giảng viên Phật giáo. Bước 4 Tham gia vào cộng đồng Phật giáo và làm việc tình nguyện để giúp đỡ người khác. Bạn có thể tham gia vào các hoạt động của chùa hoặc tổ chức từ thiện. Bước 5 Thực hành các nghi thức Phật giáo như cúng dường, kinh Đại bi hay kinh Lăng Nghiêm để nâng cao trực giác và thiền tính của mình. Lưu ý rằng, để trở thành Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di không chỉ đòi hỏi kiến thức về đạo Phật mà còn cần cả sự cống hiến và tận tâm với Phật giáo. Hãy luôn duy trì tâm hồn trong sạch và phấn đấu không ngừng để trở thành một người tu tập sao đạo Phật lại gọi người tu tại gia là Ưu bà tắc?Đạo Phật gọi người tu tại gia là Ưu bà tắc vì ý nghĩa của từ này là người nam thân cận Tam bảo để học tập và tu tập đạo Phật trong gia đình. Đây là một vai trò rất quan trọng trong đạo Phật vì người tu tại gia không chỉ rèn luyện chính mình mà còn giúp đỡ và truyền đạt đạo Phật cho những người khác trong gia đình và cộng đồng. Để hiểu rõ hơn về người tu tại gia và vai trò của họ trong đạo Phật, chúng ta có thể tham khảo các tài liệu và sách về đạo Phật, tham gia các khóa học và buổi thuyết giảng của các giáo sư, các nhà sư Phật tử có kinh nghiệm trong việc tu tại gia và đồng hành cùng những người đang tu tập trong gia đình và cộng BÀ DI VÀ ƯU BÀ TẮC 2023\"Ưu bà tắc là gì\" là một khái niệm phổ biến trong các công ty hiện đại, điều đó đồng nghĩa với việc hãy quan tâm đến sức khỏe của bản thân. Video sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về khái niệm này và cách thức để duy trì sức khỏe tốt hơn trong công việc hàng ngày. Ưu Bà Tắc - Ưu Bà Di - Thầy Thích Phước Tiến 2023Thầy Thích Phước Tiến là một trong những giảng sư được yêu thích nhất tại Việt Nam trong những năm gần đây. Những bài giảng của ông luôn cảm động và gây sự truyền cảm hứng cho người nghe. Video về Thầy Thích Phước Tiến sẽ làm bạn được chạm đến chỉ một phần trong thế giới tâm linh rộng lớn này. Ông Ưu Bà Tắc Khưu Đầu Tuệ Phạt Q5 Khai Thị Thiền Tông 2023Thiền Tông là một hình thức thiền phổ biến tại Việt Nam, và Q5 Khai Thị Thiền Tông là một trong những địa điểm thiền nổi tiếng tại Sài Gòn. Video về Q5 Khai Thị Thiền Tông sẽ giúp bạn khám phá thênh thang địa điểm tĩnh lặng này, cùng các phương pháp thiền để giảm stress và tìm lại sự bình yên trong cuộc sống.
KINH NĂM GIỚI TƯỚNG CỦA ƯU BÀ TẮC Thích Thiện Phước dịch LỜI NGƯỜI DỊCH Đức Phật dạy “Ba cõi không an, giống như nhà lửa. Muốn lìa nẻo khổ, phải nương Tam bảo; mong khỏi luân hồi, cần thọ giới pháp”. Giới luật như chiếc thuyền báu, đưa hành giả vượt qua biển sanh tử ; như đất tốt mầu, muôn vật nhờ đó mà sanh ; như viên minh châu, soi sáng đêm dài tăm tối ; là cửa ngõ bắt đầu, để đi đến thành Niết bàn tịch tĩnh . Kinh Tăng Chi đức Phật dạy “ Này những gia chủ, có năm quyền lợi người đức hạnh khi viên mãn giới, đó là Thừa hưởng gia tài lớn nhờ tinh cần ; tiếng tôt đồn xa ; không sợ hãi ngần ngại khi ở giữa chúng hội Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Gia Chủ, Sa Môn ; khi chết tâm không tán loạn ; mệnh chung được sanh về thắng thiện xứ ” . Trong năm giới của người Phật tử tại gia, nếu nhìn theo góc nhìn Nho học, nhơn luân thì đó cũng chính là Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín. Như vậy, người Phật tử tại gia giữ gìn giới luật, ngoài việc trau giồi nhân cách cao đẹp, cũng nhằm mục đích nuôi dưỡng chánh nhân giải thoát giác ngộ của chính mình. Bản kinh nầy được dịch ra, cũng không ngoài sự trông mong đó . Nguyện đem công đức nầy hồi hướng về Mười phương đàn việt, phước lợi trang nghiêm, thân tâm an nhàn. Sư trưởng mẹ cha, đạo nghiệp rạng ngời. Hành nhơn thọ giới, tu tập tinh tấn. Tám nạn ba đường, đều thoát cảnh khổ, chín cõi bốn loài mau lên bờ giác . Chùa Đông Sơn – Tiền Giang Mùa Vu Lan 2009 Thích Thiện Phước KINH NĂM GIỚI TƯỚNG CỦA ƯU BÀ TẮC Tam Tạng Cầu Na Bạt Ma nước Thiên Trúc dịch vào đời nhà Tống. 1/ GIỚI SÁT SANH. Tôi nghe như vầy, một thời Phật tại nước Ca Duy La Vệ. Bấy giờ vua Tịnh Phạn đến nơi Phật ngự, đầu mặt lễ dưới chân Phật xong, ông chắp tay cung kính bạch Phật rằng Nay con có lời thỉnh cầu, để được tự cứu vớt, cúi xin Thế tôn thương xót chỉ dạy cho . Phật dạy Được, Như lai sẽ thuận theo lời nhu yếu của phụ vương . Vua bạch Phật rằng “ Thế tôn, ngài đã vì Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni chế ra những điều khinh trọng của giới luật, cúi mong Như lai, cũng vì hàng Ưu Bà Tắc chúng con, phân biệt về năm giới, tội nào hoàn toàn có thể sám hối, tội nào không hề sám hối, để cho chúng con biết giới tướng rõ ràng không còn nghi vấn ” . Phật dạy Lành thay ! Lành thay ! Cù Đàm ta đã có ý niệm này, từ lâu đã có dự tính phân biệt nói về năm giới của hàng Ưu Bà Tắc. Nếu có người thiện nam nào thọ trì không phạm, do nhân duyên ấy sẽ được thành Phật đạo. Còn như người phạm mà không sám hối thì thường ở trong ba đường ác. Bấy giờ Đức Phật nói cho vua Tịnh Phạn nghe những nhân duyên, vua nghe pháp xong, bèn đến trước đức Phật đảnh lễ dưới chân, sau đó đi nhiễu quanh Phật . Phật đem nhân duyên này, bảo những tỳ kheo Ta nay sẽ vì những Ưu Bà Tắc nói về sự khinh trọng của việc phạm giới hoàn toàn có thể sám hối, không hề sám hối . Các tỳ kheo đều bạch Xin vâng, chúng con xin muốn nghe . Phật dạy Này những tỳ kheo ! nói về phạm giới sát thì có ba hình thức để đoạt mạng người, một là tự làm, hai là dạy người, ba là sai khiến tự làm . – Tự làm là tự thân đoạt mạng người khác. Dạy người tức là dạy bảo người khác, nói rằng hãy bắt người ấy trói buộc để đoạt mạng sống họ. Sai khiến là bảo người khác rằng Ngươi biết người mỗ giáp … ấy không ? Nếu biết thì ngươi bắt người ấy trói buộc để đoạt mạng sống của họ, bấy giờ Ưu Bà Tắc phạm tội không hề sám hối . – Lại có ba loại đoạt mạng người, một là dùng nội sắc, hai là dùng phi nội sắc, ba là dùng nội phi nội sắc . – Nội sắc tức là Ưu Bà Tắc dùng tay mình đánh người khác, hoặc là dùng chân và những chi phần khác của thân, rồi nghĩ rằng khiến cho họ chết. Nếu họ nhân thế mà bị chết đi, như vậy gọi là phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau này nhân thế mà chết thì cũng bị phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau không nhân thế mà chết, thì phạm tội hoàn toàn có thể sám hối . – Dùng phi nội sắt là lấy cây, ngói, đá, dao, giáo, cung tên, khúc bạch lạp, khúc gậy chì từ xa ném vào họ, nghĩ rằng Khiến cho họ nhân thế mà chết đi. Người ấy nhân thế mà chết, thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau đó nhân thế mà chết cũng phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau đó cũng không chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . – Dùng nội phi nội sắc, tức là nếu có người nào tay cầm gậy, ngói, đá, dao, giáo, cung tên, khúc bạch lạp, khúc gậy chì, khúc cây đánh người khác mà nghĩ thế này Khiến cho người đó nhân thế mà chết. Nếu người ấy nhân thế mà chết thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau đó mới chết, phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau cũng không chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Lại có người không dùng nội sắc, cũng không dùng phi nội sắc, cũng không dùng nội phi nội sắc để giết người mà lại trộn những thuốc độc, hoặc để trên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, hoặc trên vết thương, hoặc để trên những thức ăn, hoặc trong mền nệm, trong xe kiệu, nghĩ rằng Khiến cho họ nhân thế mà chết. Người ấy nhân đó mà chết thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau nhân thế mới chết, cũng phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, hoặc sau đó cũng không chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Lại có người đào hầm không có khói lửa để giết người khác, dùng hạt giết, dùng bẫy gày, đào hầm giết, tốc lên để giết, dùng chú Tỳ Đà La giết, đọa thai giết, xô rớt trong nước lửa, xô rớt trong hầm để giết, hoặc thủ đoạn sai đi khiến cho bị chết ở dọc đường, cho đến thai mới tượng hình có hai căn, thân căn, mạng căn mà khởi phương tiện đi lại giết, trong hầm không có khói lửa giết. Nếu Ưu Bà Tắc biết người ấy đi qua con đường nầy, bèn đào hầm không có khói lửa, rồi lấy cát đất phủ lên. Hoặc miệng nói Vì người ấy đi qua con đường nầy, nên ta làm hầm. Nếu người đó nhân thế mà chết, phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau nhân đó mà chết, phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau cũng không nhân thế mà chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Nếu vì giết người mà đào hầm không có khói lửa, loài người chết không hề sám hối, loài phi nhơn chết thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, loài súc sanh chết phạm tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối . Nếu làm hầm để giết phi nhơn, phi nhơn chết thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, người chết thì phạm tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối, súc sanh chết phạm tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối . Nếu làm hầm để giết súc sanh, súc sanh chết thì tội ấy thuộc bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối, nếu người rớt xuống mà chết, hoặc phi nhơn rớt xuống mà chết, đều phạm tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối . Nếu hàng Ưu Bà Tắc làm hầm với mục tiêu bất định, mà hầm ấy bất kể loài nào đến hễ rơi xuống đều bị chết hết. Trong trường hợp ấy, người chết thì phạm tội không hề sám hối ; phi nhơn chết, tội ấy thuộc tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối ; súc sanh chết thuộc tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối ; tổng thể đều không chết, phạm ba tội phương tiện đi lại hoàn toàn có thể sám hối. Thế gọi là làm hầm không có khói lửa để giết vậy . Dùng chú Tỳ Đà La, nếu hàng Ưu Bà Tắc để ra 29 ngày triệu tập những loài ma niệm chú vào tử thi, dùng chú thuật khiến cho thây người chết đứng dậy, rồi lấy nước tắm rửa mặc quần áo vào cho tử thi, dùng chú tinh chỉnh và điều khiển cho tay cầm dao, hoặc tâm nghĩ miệng nói Ta vì kẻ mỗ giáp … dùng chú Tỳ Đà La này để giết hại, liền đọc chú thuật, nếu người bị hại chết liền thì phạm tội không hề sám hối. Nếu người đó trước đã vào trong những tam muội, hoặc thiên thần hộ trì, hoặc được đại chú sư cứu vớt giải mở khiến không thành pháp hại, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Thế gọi là dùng chú Tỳ Đà La để giết vậy . Dùng nửa phần Tỳ Đà La để giết, nếu có Ưu Bà Tắc để ra 29 ngày làm xe sắt, khi làm xong lại làm người bằng sắt, đọc chú khiến người sắt đứng dậy, sau đó dùng nước rượu tắm rửa mặc áo vào người sắt, điều khiển và tinh chỉnh khiến người sắt tay cầm dao, hoặc tâm nghĩ miệng nói Ta vì kẻ mỗ giáp … đọc chú này để giết hắn, nếu người đó chết thì bị phạm tội không hề sám hối, nếu người đó trước đã vào những tam muội, chư thiên thần hộ trì, hoặc chú sư cứu vớt được giải thoát không bị chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Thế gọi là dùng nửa phần Tỳ Đà La để giết vậy . Đoạn mạng tức là để ra 29 ngày, dùng phân bò trét đất, đem rượu thức ăn để vào trong nồi, sau đó đốt lửa xong liền dùng nước rưới vào. Nếu tâm nghĩ miệng, đọc chú thuật rằng Như lửa tắt trong nước, nếu lửa tắt thì mạng sống của quân địch theo đó mà chết . Lại trong 29 ngày đêm dùng phân bò trét dưới đất, đem rượu thịt để trong nồi, rồi vẽ hình tượng người mà mình muốn giết, làm tượng xong, lại bôi đi, tâm nghĩ miệng nói, đọc chú rằng Nếu như hình vẽ này mất, thì mạng sống của quân địch của ta cũng mất, nếu lúc hình vẽ mất, mạng sống kia cũng mất . Lại nữa để ra 29 ngày dùng phân bò trét đất, rượu thức ăn để bên trong nồi, lấy kim đâm vào chéo áo, vừa đâm vừa nhổ ra, tâm nghĩ miệng nói, đọc chú rằng Nếu như nhổ cây kim này ra, mạng sống của họ theo đó chết, thế gọi là đoạn mạng sống. Nếu dùng những loại chú này để trù yếm, khiến cho họ chết, phạm tội không hề sám hối, nếu không chết thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Lại nữa, làm đọa thai, là cho người nữ đã có thai uống thuốc rồi ói ra và rưới nước trên toàn bộ những nơi có thuốc độc, hoặc rãi thuốc độc khắp nơi khiến cho người nữ đạp lên, hoặc dùng kim chích vào mạch máu, cho đến nhỏ thuốc vào mắt, khi làm như vậy với ý nghĩ muốn khiến người nữ kia chết. Nếu họ chết thật thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau đó mới chết, thì cũng phạm tội không hề sám hối. Nếu không chết liền, sau đó cũng không thế cho nên mà chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Nếu vì muốn giết người mẹ nên làm đọa thai, giả như mẹ chết thì phạm tội không hề sám hối. Nếu thai nhi chết thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối. Nếu cả hai đều chết thì tội ấy không hề sám. Nếu cả hai đều không chết thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu vì giết thai nhi do đó làm giải pháp đọa thai, thai nhi chết phạm tội không hề sám hối. Nếu thai không chết thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu mẹ chết phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu cả hai đều chết thì tội ấy không hề sám hối. Đó gọi là cách giết làm đọa thai . Đè bụng chết khiến cho người phụ nữ có mang thai làm nặng, hoặc vác vật nặng, bảo họ phải kéo xe, hoặc khiến họ lên dốc cao hiểm trở, rồi nghĩ rằng Ta sẽ khiến cho người nữ này chết. Nếu người nữ chết thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không nhân thế mà chết thì tội bậc trung, hoàn toàn có thể sám hối, hoặc để cho người mang thai … như trên đã nói, đó gọi là đè bụng giết . Sai khiến người khác chết ở giữa đường Biết đoạn đường ấy có ác thú đói khát, mà thủ đoạn sai họ đi vào trong con đường ấy rồi nghĩ rằng Ta sẽ khiến cho kẻ ấy bị chết vào trong con đường ác đó, nếu họ chết thì phạm tội không hề sám hối. Còn những trường hợp khác việc phạm tội giống như trước đã nói, đó gọi là giết chết trong con đường ác. Cho đến trong thai mẹ vừa được hai căn thân căn và mạng căn, trong khoảng chừng thời hạn ngắn ấy, đem tâm giết hại, khởi phương tiện đi lại để khiến cho chết, phạm tội không hề sám hối. Ngoài ra, phạm những tội khác giống như trước đã nói . Khen ngợi giết có ba loại 1 / Người ác giới. 2 / Người thiện giới, 3 / Người già bệnh. Người ác giới tức là giết trâu dê, nuôi heo gà, thả chim ưng, bắt cá, thợ săn, lưới thỏ, bắt con chương con nai, làm đồ tể, trộm cướp, trù rủa, giữ ngục. Nếu đến người như vậy nói rằng Các người là kẻ ác giới, sao tạo tội đã lâu mà không chịu chết sớm ? Người ấy nhân thế mà chết, thì phạm tội không hề sám hối. Nếu không nhân thế mà chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu người ác nói như thế người kia không nghe theo lời người này, không nhân thế mà chết thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, hoặc khen ngợi người này khiến cho họ chết, có tâm hối hận nghĩ Tại sao khiến người bị chết như thế ? Trở lại nói lời rằng Các ngươi là ác nhơn hoặc do vì nhơn duyên thiện tri thức, thân cận người lành, được nghe pháp lành, hay chánh tư duy, xa lìa tội ác, ngươi chớ tự sát. Nếu người ấy tiếp nhận lời mà không chết, thì tội ấy thuộc bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, khéo răn dạy bốn chúng của Như lai là vậy . Nếu đến chỗ những người lành nói thế này Ngươi trì thiện giới, có phước đức. Nếu chết đi thì liền được phước trời, sao không tự đoạt mạng. Người ấy nhân vì thế mà tự sát, phạm tội không hề sám hối. Nếu họ không tự sát, phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu người thiện giới nghĩ rằng Ta cớ sao phải nghe theo lời người khác mà tự sát ? Nếu không chết, thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối. Nếu dạy người khác chết, rồi sinh lòng hối hận, nghĩ rằng ta không đúng, tại sao phải dạy người lành chết, bèn đến nói trở lại rằng Ngươi là người lành, tùy theo thọ mạng mà sống, phước đức thêm nhiều, vì vậy thọ phước càng nhiều, chớ nên tự đoạt mạng sống. Nếu họ không nhân vậy mà chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối . Người già bệnh bốn đại tăng giảm, chịu những khổ não, đến nói với người đó rằng Ngươi vì sao kham chịu nỗi khổ này lâu đến thế, sao không tự kết liểu mạng sống đi ? Người đó nhân thế mà chết, thì tội ấy không hề sám hối. Nếu không nhân thế mà chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu người ấy tự nghĩ rằng Ta vì nhơn duyên gì mà dạy người tự đoạt mạng sống ? Hoặc bảo người bệnh xong, sau đó sanh lòng hối hận, ta nói thế là không đúng, tại sao phải bảo người bệnh này tự sát ? Rồi người ấy đi đến nói trở lại rằng Nầy người bệnh nếu ngươi được thuốc hay, hoặc có ai mà khéo chăm nom bệnh tình của ngươi, nhờ cho uống thuốc, nhà hàng siêu thị đúng cách, thì bệnh ấy hoàn toàn có thể được chữa khỏi, vậy chớ tự kết liểu mạng sống. Nếu người bệnh đó không nhân thế mà chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Ngoài ra còn bảy loại sát hại như xô vào hầm, lửa … đã nói rõ việc phạm, không phạm, giống như trên. Nếu người tưởng là người mà giết, thì tội ấy không hề sám hối ; người tưởng là phi nhơn giết chết, người mà trong đó có ý niệm hoài nghi giết, đều phạm tội không hề sám hối ; phi nhơn tưởng là người mà giết, phi nhơn sanh nghi giết, phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối . Lại nữa, một người bị chặt tay chân bị bỏ ở bên hào thành, lại có những người nữ đi vào trong thành, nghe tiếng gào khóc như thế bèn đi đến để xem, cùng nhau bảo rằng Như ai hoàn toàn có thể cho người này uống thuốc độc, khiến cho chết ngay không phải chịu khổ lâu. Trong đó có kẻ ngu gặp người nữ liền đưa thuốc cho họ uống, khi uống vào liền bị chết. Các người nữ nói rằng Ngươi phạm giới không hề sám hối, liền bạch Phật, Phật dạy Người nào đưa thuốc cho uống để họ chết thì phạm giới không hề sám hối . Nếu có hàng cư sĩ dùng phương tiện đi lại muốn giết người mẹ mà giết nhằm mục đích chẳng phải là người mẹ, tội ấy hoàn toàn có thể sám hối ; nếu hàng cư sĩ muốn giết người chẳng phải mẹ mình mà tự lại giết lầm người mẹ, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, chẳng phải tội nghịch. Nếu người cư sĩ phương tiện đi lại muốn giết người mà lại giết phi nhơn, tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . Nếu hàng cư sĩ dùng phương tiện đi lại muốn giết phi nhơn mà giết nhằm mục đích loài người, thì phạm tội nhẹ hoàn toàn có thể sám hối . Có người mang thai súc sanh, muốn trục thai này, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối ; hoặc súc sanh mang thai người, mà muốn trục thai này, thai chết đi thì phạm tội không hề sám hối . Nếu có người cư sĩ vì lập kế giết người, cư sĩ chết trước, ít lâu sau người đó mắc mưu kế này mà chết, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối . Nếu hàng cư sĩ muốn giết chết cha mẹ rồi sanh lòng nghi, không biết có đúng là cha mẹ mình hay không ? Nếu biết rõ đúng là cha mẹ mà giết, thì phạm tội nghịch không hề sám hối . Nếu hàng cư sĩ khởi tâm giết người rồi sanh lòng nghi, không biết có phải đúng là người ta định giết không, nếu biết chắc là người mà ta định giết, bèn ra tay giết, thì phạm tội không hề sám hối . Nếu người bắt được kẻ giặc muốn đem đi giết, giặc được tẩu thoát, rồi người này nhờ thế lực của quan, hoặc thế lực của hàng xóm sai đi tìm giặc đó. Nếu có cư sĩ ngược đường đi tới, người đuổi theo kẻ giặc hỏi cư sĩ rằng Ông thấy kẻ giặc không ? Cư sĩ đó vì trước kia có ác tâm sân hận so với kẻ giặc đó, nên nói rằng Tôi thấy ở chỗ ấy …, do nhân duyên như thế khiến cho kẻ giặc bị mất mạng, thì phạm tội không hề sám hối . Nếu người sắp đem nhiều giặc muốn giết hại, giặc ấy được trốn thoát, hoặc nhờ thế lực của quan, hoặc thế lực của làng xóm đuổi theo, cư sĩ đó ngược đường đi đến, người đuổi theo hỏi cư sĩ rằng Ông thấy giặc không ? Trong số giặc ấy có một người vốn đã kết oán thù với cư sĩ, cư sĩ liền nói rằng Tôi thấy ở chỗ đó, nếu bắt nhằm mục đích tên giặc khác, chẳng phải là kẻ mà người cư sĩ oán thù, thì tội hoàn toàn có thể sám hối, ngoài những như trên đã nói . Nếu cư sĩ cố ý muốn giết mẹ mà giết lầm kẻ khác, thì phạm nghịch tội không hề sám hối. Nếu đùa cười đánh người khác, họ vô tình chết đi thì tội ấy hoàn toàn có thể sám hối. Nếu như bị bệnh điên cuồng, không tự nhớ nghĩ việc giết hại thì không tội . Nếu hàng Ưu Bà Tắc dùng nước có trùng, cho đến giết trùng trong thảo mộc thì đều phạm tội . Nếu trong những đồ vật có trùng, mà tưởng là không trùng, khi sử dụng thì cũng phạm ; nếu không có trùng mà tưởng có trùng rồi sử dụng cũng phạm . Có hàng cư sĩ dựng nhà mới, leo lên mái lỡ làm rớt đòn vong rơi cây trên đầu thợ mộc, thợ mộc liền chết. Cư sĩ sanh lòng hoài nghi có bị phạm tội hay không, bèn hỏi Phật, Phật dạy không có tâm cố sát thì không tội. Lại có cư sĩ lúc thượng lương nhà, vì sức yếu không hề cầm cự được, xảy tay làm đòn dong rớt trên đầu thợ mộc, thợ mộc liền chết, cư sĩ liền sanh lòng hoài nghi, Phật dạy là không tội. Nhưng từ nay trở về sau, nên dụng tâm chú ý quan tâm, chớ để chết người . Lại có một cư sĩ lúc leo lên mái nhà, gặp phải bò cạp, anh sợ hãi nhảy xuống làm rơi cây trên đầu thợ mộc, thợ mộc liền chết, cư sĩ sanh lòng hoài nghi. Phật dạy không tội nhưng từ nay về sau phải đem tâm cẩn trọng mà làm, chớ để chết người . Lại có một cư sĩ, trời tối đi vào đường nguy khốn gặp giặc, tên giặc muốn bắt họ, cư sĩ cố gắng nỗ lực tẩu thoát, vì không thấy đường nên trượt chân rớt từ sườn núi xuống nhà thợ dệt, thợ dệt liền chết, cư sĩ sanh hoài nghi, Phật dạy không tội . Lại có một cư sĩ cạy đá trên đỉnh núi, đá rơi xuống làm chết người. Phật dạy là không tội, nhưng nếu muốn lăn đá trước phải la lên, nói là sắp đá lăn xuống để khiến cho người biết . Lại có một người bệnh ghẻ nhọt nhưng chưa mùi, cư sĩ giúp nặn phá khiến họ bị chết, liền sanh lòng hoài nghi. Phật dạy, ghẻ nhọt chưa mùi nếu nặn mà người bị chết thì tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, nếu như phá nhọt đã mùi rồi mà chết thì không tội . Lại có một đứa trẻ hay cười, cư sĩ bắt thọc lét khiến cho nó cười to lên, nhưng đứa trẻ liền chết đi, cư sĩ sanh lòng hoài nghi. Phật dạy vì giỡn chơi vì vậy không phạm tội sát, nhưng từ nay trở đi không nên thọc lét khiến cho người khác cười . Lại có một người ngồi lấy áo phủ kín thân, cư sĩ bảo hãy ngồi dậy, người ấy nói chớ gọi tôi, tôi đứng lên thì sẽ chết ngay ; nhưng cư sĩ bắt buộc phải đứng dậy, người ấy đứng dậy thì liền chết đi. Cư sĩ sanh lòng hoài nghi bạch Phật, Phật dạy tội ấy hoàn toàn có thể sám hối . 2/ GIỚI TRỘM. Đức Phật dạy những thầy Tỳ kheo, hàng Ưu Bà Tắc dùng ba cách để lấy vật quí của người khác, phạm tội không hề sám hối . Một là dùng tâm . Hai là dùng thân . Ba là lìa khỏi chỗ cũ . Dùng tâm tức là khởi tâm nghĩ tưởng, muốn thực thi việc trộm cướp . Dùng thân tức là dùng thân phần để lấy vật của người khác . Lìa ở chỗ cũ tức là vật ở chỗ này lại dời qua chỗ khác . Lại có ba cách lấy vật quí của người, phạm tội không hề sám hối . Một là tự lấy . Hai là dạy người khác lấy . Ba là sai khiến người lấy . Tự lấy tức là tự tay nhấc rời khỏi chỗ cũ . Dạy người khác lấy là nếu có Ưu Bà Tắc dạy người lấy trộm vật của kẻ khác, người đó liền lấy khỏi chỗ cũ . Sai khiến là bảo người rằng Ngươi biết chỗ để vật quí đó không ? Đáp rằng Biết chỗ. Bèn sai đến lấy trộm, người ấy theo lời dạy lấy dời khỏi chỗ cũ . Lại có năm cách lấy vật quí của người, phạm tội không hề sám hối . 1 Cố ý lấy. 2 Xem thường mà lấy. 3 Dối trá xưng danh để tự lấy. 4 Cưỡng đoạt lấy. 5 Nhận người gởi mà lấy. Trọng vật tức là vật trị giá năm tiền trở lên, phạm tội không hề sám hối. Nếu người cư sĩ biết người khác có năm thứ báu, hoặc giống như năm thứ báu, rồi dùng tâm trộm lựa ra mà chưa dời khỏi chỗ cũ thì phạm tội hoàn toàn có thể sám hối. Nếu soạn ra xong lấy lìa khỏi chỗ cũ, số lượng vật trị giá năm tiền, phạm tội không hề sám hối. Lìa khỏi chỗ cũ như dệt vải, khi hứa với người thứ chỉ này lại dệt chỉ khác, gọi là đổi chỗ, hoặc da, hoặc áo dùng đúng một màu gọi là đúng chỗ, hễ dùng màu khác thì gọi là đổi chỗ, hoặc mền lông, một lớp lông gọi là đúng chỗ, một màu gọi là đúng chỗ, khác màu gọi là khác chỗ, thế gọi là khác chỗ. Nếu cư sĩ gánh vật mướn cho người, rồi dùng tâm trộm đổi từ vai trái để qua vai phải, tay phải để qua tay trái, những thân phần như vậy, gọi là đổi chỗ. Xe thì bánh, trục, đòn ngang xe. Thuyền thì hai bánh lái trước, sau. Nhà thì kèo cột rui mè, đòn tay bốn góc và xung quanh, đều gọi là đổi chỗ. Nếu dùng tâm trộm dời vật để ở chỗ khác, thì đều phạm tội không hề sám hối. Trộm vật trong nước tức là người ta chặt cây rồi thả trôi theo dòng, cư sĩ lấy bằng tâm trộm thì phạm tội không hề sám hối. Nếu có tâm trộm nắm cây khiến cho trụ ở sau dòng, đến trước mé, rồi đem tâm trộm nhận cho chìm xuống đáy sông, hoặc khi vừa lấy rời khỏi nước, đều phạm tội không hề sám hối . Lại như có chủ nuôi chim trong ao, cư sĩ dùng tâm trộm nhận chìm xuống nước, thì phạm tội hoàn toàn có thể sám hối. Nếu như đem ra khỏi ao nước, thì phạm tội không hề sám hối. Hoặc nhà người khác nuôi chim bay vào trong ao bị bỏ phí, cư sĩ dùng tâm trộm bắt đem đi nơi khác, cho đến nhận chìm xuống đáy, đều phạm tội không hề sám hối . Lại có cư sĩ trong ngoài trang nghiêm không thiếu những thứ, ở trên lầu quan sát, thấy những loài chim có chủ, ngậm bảo vật bay đi, cư sĩ dùng tâm trộm đoạt lấy bảo vật của chim này, thì phạm tội không hề sám hối. Nếu thấy chim ngậm bảo vật bay đi, dùng tâm trộm từ xa trông đợi, thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu dùng chú lực khiến cho chim kia tùy ý đi đến chỗ theo ý mình mong ước, thì phạm tội không hề sám hối. Nếu đến những chỗ khác thì phạm tội hoàn toàn có thể sám hối . Nếu có chim hoang ngậm của báu bay đi, cư sĩ đem tâm trộm đoạt lấy bảo vật của chim hoang ấy, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối, còn như chờ chim hoang bay đến thì phạm tội nhẹ hoàn toàn có thể sám hối . Lại nữa có những loài chim hoang dã, ngậm bảo vật bay đi những nơi, chim có chủ đoạt lấy của chim hoang dã, cư sĩ lại đem tâm trộm đoạt lấy bảo vật của chim có chủ, phạm tội không hề sám hối. Còn như chờ chim bay đến thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, ngoài những như đã nói ở trên. Lại nữa, như những loài chim có chủ ngậm bảo vật bay đi bị chim hoang đoạt, cư sĩ đem tâm trộm đoạt lấy vật của chim hoang, phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, lúc chờ đón cũng phạm tội hoàn toàn có thể sám hối, ngoài những cũng giống như trên . Nếu hàng cư sĩ chơi đánh cờ lại dùng tâm trộm quy đổi vị trí con cờ để thắng người, khi thắng được năm tiền thì phạm tội không hề sám hối . Nếu hàng cư sĩ dùng tâm trộm lấy Xá Lợi phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, nếu dùng tâm cung kính mà nghĩ rằng Phật cũng là thầy, ta đem tâm thanh tịnh mà đoạt lấy thì không phạm . Nếu hàng cư sĩ đem tâm trộm lấy kinh, phạm tội không hề sám hối, nhưng phải tính ra giá trị của kinh mà phân định tội nặng nhẹ . Nói đến trộm ruộng thì có hai nhân duyên đoạt ruộng người khác, một là cáo trạng thắng kiện được, hai là lấn ranh. Nếu hàng cư sĩ muốn chiếm đất, do đó cố lấn cho được, nếu lấn quá phần, trị giá năm tiền phạm tội không hề hối . Có những cư sĩ đáng lý phải nộp thuế nhưng trốn không nộp, nếu quá năm tiền phạm tội không hề sám hối. Lại có cư sĩ mang vật phải đi ngang qua chỗ quan thuế, bèn nói với những cư sĩ khác rằng Các vị mang dùm tôi vật này qua cửa ải, tôi sẽ biếu cho những vị nửa tiền thuế, những cư sĩ nhận lời cầm qua, nếu như trốn thuế quá năm tiền, phạm tội không hề sám hối . Cư sĩ nếu chỉ dạy người con đường khác khiến cho trốn thuế, vật mang qua trị giá năm tiền phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối. Nếu chỗ thuế có nạn giặc, ác thú hoặc đói khát mà chỉ bày con đường khác, nhằm mục đích để khỏi hẳn điều nguy cơ tiềm ẩn này thì không phạm . Lại có cư sĩ hẹn với giặc cướp cùng nhau mưu mô cướp phá những thôn xóm, được gia tài rồi cùng nhau phân loại, cư sĩ được chia trị giá năm tiền phạm tội không hề sám hối . Trộm của chúng sanh không chân, cư sĩ thấy người hớt lăng quăng đổ vào bình của họ, sau đó lén trút qua bình mình, thì phạm tội không hề sám hối, sự lựa chọn giống như trên . Trộm của chúng sanh hai chân, ba chân, người và những loài chim thiên nga, nhạn, anh vũ … những loài chim bị nhốt ở trong lồng, nếu đem tâm trộm cướp mà lấy thì phạm tội không hề sám hối, ngoài những như trên đã lý giải . Trộm người có hai cách, một là vác đi, hai là cùng hẹn. Nếu cư sĩ đem tâm trộm vác người ở trên vai, hai chân người ấy hỏng đất, phạm tội không hề sám hối. Nếu như cùng hẹn, hễ đi quá hai bước, phạm tội không hề sám hối, ngoài những đều giống như đã nói ở trên . Trộm loài vật bốn chân như Voi, ngựa, bò, dê … những loài vật thuộc chiếm hữu của người, họ lấy dây buộc vào một chỗ cố định và thắt chặt, cư sĩ dùng tâm trộm dẫn đi, hễ bốn chân con vật vừa bước, phạm tội không hề sám hối. Nếu con vật nằm ở một nơi, đem tâm trộm đuổi đi, vật đứng dậy, bốn chân vừa bước tiến, phạm tội không hề sám hối, loài nhiều chân cũng giống như vậy . Nếu như con vật nằm ở trong chuồng, ngoài có rào, vách ngăn bên trong, đem tâm trộm mà đuổi bắt, vật vừa ra khỏi chuồng, phạm tội không hề sám hối ; còn những trường hợp khác như đã nói ở trên . Nếu loài vật ấy đang thả ở ngoài đồng, cư sĩ đem tâm trộm nghĩ rằng Phải chi người chăn đi vào trong rừng ta sẽ trộm lấy, vừa khởi ra ý niệm như vậy phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối . Nếu tự giết con vật đồng với tội sát, giết rồi lấy thịt chừng năm tiền, phạm tội không hề sám hối . Lại có bảy loại 1 Biết chẳng phải vật của mình. 2 Người chủ không đồng ý. 3 Không phải tạm dùng. 4 Biết có chủ. 5 Mình không điên cuồng. 6 Tâm không bấn loạn. 7 Không bị bệnh làm tâm mê mờ. Đây là bảy loại lấy trọng vật, phạm tội không hề sám hối. Lấy được khinh vật, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối, lại có bảy loại 1 Nghĩ là vật của mình. 2 Người ta đồng ý. 3 Tạm dùng. 4 Vật không có chủ. 5 Do điên cuồng. 6 Tâm loạn. 7 Bị bệnh làm tâm mê mờ. Bảy cách lấy vật trên đây thì không phạm . Có một cư sĩ trồng củ cải, lại có một người đến khu vườn nói với cư sĩ rằng Cho ta ít củ cải. Cư sĩ hỏi rằng Ngươi có tiền không ? Đáp Ta không tiền. Cư sĩ nói. Nếu cần củ cải thì cầm tiền đến, ta mới cho ngươi. Nếu đem cho không thì ta lấy gì để lo cho hai bữa ăn sớm chiều. Khách hỏi Ngươi nhất định không cho ta à ? Chủ bảo Ta làm thế nào cho không ngươi được chứ ? Khách liền dùng chú thuật khiến cho củ cải chết khô, khi trở về sanh lòng hoài nghi, bèn đi đến bạch Phật, Phật dạy Tính giá trị cọng lá hoa quả với nền tảng, thì biết là tội nặng nhẹ hoàn toàn có thể sám hối được không ? Có một người ở trong Kỳ Hoàn, lúc đang cày ruộng cởi áo để trên bờ. Bấy giờ có cư sĩ đi ngang qua thấy áo, nhìn xung quanh không có ai hết, bèn lấy áo mang đi. Khi ấy, người cày ruộng từ xa thấy, nói với cư sĩ rằng Ơ nầy đừng lấy áo tôi. Cư sĩ không nghe, giống như là không có ai hết, tự cho áo này là vô chủ nên mang đi. Người cày ruồng liền đuổi theo chụp vai cư sĩ, nói rằng Cách sống của ông là lấy của không cho ư ? Cư sĩ đáp Tôi nghĩ rằng chiếc áo nầy không có chủ nên mới lấy thôi, đâu phải cách sống của tôi như thế. Người cày ruộng nói Đây là áo của tôi. Cư sĩ bảo Nếu là áo của ông, thì nên lấy đi. Cư sĩ sanh lòng hoài nghi, không biết mình có bị tội không ? Mình phạm tội không hề sám hối ư ? Liền đến chỗ Phật để thưa hỏi việc ấy. Phật biết mà cố hỏi Vậy chứ ngươi lấy bằng tâm gì ? Cư sĩ nói Con cho là không có chủ. Phật dạy Nếu như thế thì không phạm, nhưng từ nay về sau lấy vật phải khéo Để ý đến. Có khi vật tuy không có người giữ nhưng kỳ thật đã có chủ, nếu móng tâm lấy trộm, chưa lấy thì phạm tội bậc hạ hoàn toàn có thể sám hối, lấy mà chưa đủ năm tiền thì phạm tội bậc trung hoàn toàn có thể sám hối, lấy mà đủ năm tiền phạm tội không hề sám hối . 3/ GIỚI DÂM. Phật bảo những tỳ kheo Ưu Bà Tắc không nên sanh dục tưởng, cảm xúc của dục tưởng còn không nên sanh tâm, huống chi cố khởi dục tưởng sân hận si mê, ràng buộc nghiệp ác cơ bản bất tịnh. Trong đây, đối tượng người tiêu dùng phạm tội tà dâm có bốn Nam, nữ, huỳnh môn, hai căn . Nam là người nam, phi nhơn nam, súc sanh đực . Nữ tức là người nữ, phi nhơn nữ, súc sanh cái . Huỳnh môn hai căn cũng giống như trên . Nếu như hàng Ưu Bà Tắc cùng với người nữ, phi nhơn nữ, súc sanh cái, hành dâm ở ba chỗ, phạm tội không hề sám hối. Nếu người nam, phi nhơn nam, súc sanh đực, huỳnh môn, hai căn, hành dâm ở hai chỗ, phạm tội không hề sám hối. Nếu khởi tâm muốn hành dâm, chưa hòa hợp, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối . Nếu Ưu Bà Tắc, hành dâm với tớ gái đã có mái ấm gia đình rồi, thì phạm tội không hề sám hối, ngoài những những tội nhẹ như trên đã nói. Ba chỗ là miệng, đại tiện, tiểu tiện, trừ ba chỗ ấy ra nếu hành dục ở những chỗ khác, thì đều hoàn toàn có thể sám hối . Nếu hàng Ưu Bà Tắc, hành dâm với tớ gái chưa có mái ấm gia đình ở trong phi đạo mà hành dâm, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối, nhưng đời sau sanh ra mắc quả báo nặng nề . Nếu hàng Ưu Bà Tắc cùng người nam, trẻ nhỏ, người sứ … mà hành dâm với chúng ở hai chỗ, phạm tội không hề hối, những tội khinh phạm giống như nói trên . Nếu hàng Ưu Bà Tắc thỏa thuận hợp tác giá thành với dâm nữ rồi hành dâm, sau đó quỵt không trả tiền, phạm tội tà dâm không hề sám hối, nếu trả tiền thì không phạm . Nếu người chết, cho đến súc sanh chết mà thân căn chưa hoại, bèn thao tác tà dâm với người nữ kia ở ba chỗ, thì phạm tội không hề sám hối, những việc khinh phạm giống như đã nói ở trên . Nếu hàng Ưu Bà Tắc tự thọ tám phần trai giới lại hành dâm, phạm tội không hề sám hối, tám phần trai giới không luận là tà hay chánh toàn bộ đều phạm . Nếu hàng Ưu Bà Tắc tuy không thọ giới, nhưng phạm dâm với đệ tử của Phật, dù không mắc tội phạm giới, nhưng sau này mãi mãi không được thọ năm giới, cho đến xuất gia cũng không được thọ cụ túc giới . Phật bảo các tỳ kheo Ta có hai thân, sanh thân và giới thân. Nếu thiện nam tử vì ta xây dựng tháp bảy báu cao đến trời Phạm Thiên, như có ai đó cố làm sụp đổ, tội ấy còn có thể sám hối, nhưng làm khuyết đi giới thân ta, tội ấy thật vô lượng, giống trường hợp Y Như La Long Vương. 4/ GIỚI VỌNG NGỮ. Phật bảo những Tỳ kheo Ta dùng những phương tiện đi lại quở trách vọng ngữ, khen ngợi người không vọng ngữ, cho đến đùa cười còn không nên vọng ngữ, huống chi là cố ý vọng ngữ. Hình thức phạm tội trong đây là Nếu hàng Ưu Bà Tắc không biết, không thấy thánh pháp hơn người. Tự nói ta là bậc La Hán, đang hướng đến La Hán quả, phạm tội không hề hối. Nếu nói ta là A Na Hàm, Tư Đà Hàm, Tu Đà Hoàn, cho đến hướng đến Tu Đà Hoàn, hoặc đắc sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền hoặc được từ bi hỉ xả vô lượng tâm, hoặc được vô sắc định, hư không định, thức xứ định, vô chiếm hữu xứ định, phi tưởng, phi phi tưởng xứ định, hoặc được bất tịnh quán An Na Ban Na, hoặc nói chư thiên đến chỗ ta, những rồng dạ xoa, bế lệ, tỳ xá xà, cưu bàn trà, la sát đến chỗ ta, chúng hỏi ta, ta vấn đáp với chúng, ta hỏi chúng, chúng vấn đáp với ta, tổng thể những trường hợp trên đều phạm tội không hề sám hối. Nếu muốn nói La Hán nhưng nói lầm là A Na Hàm, tội ấy hoàn toàn có thể sám hối, còn những việc phạm tội khác cũng tựa như như vậy . Nếu hàng Ưu Bà Tắc có người hỏi Ngươi được đạo chưa ? Hoặc tĩnh mịch, hoặc hiện ra hình tướng, thì đều phạm tội hoàn toàn có thể sám hối. Cho đến nói gió cuộn quỉ thần thổ địa đến chỗ ta, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối . Nếu hàng Ưu Bà Tắc có thật nghe mà nói không nghe, thật thấy mà nói không thấy, nghi có mà nói không, không mà nói có, những sự vọng ngữ như vậy đều phạm tội hoàn toàn có thể sám hối. Nếu khởi lòng muốn vọng ngữ nhưng chưa nói, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối, hoặc nói ra mà không hết ý, phạm tội hoàn toàn có thể sám hối. Nếu đến nói với người là mình đã đắc đạo, phạm tội không hề sám hối. Nếu tâm điên cuồng, hoặc nói mà không biết thì không phạm . 5/ GIỚI UỐNG RƯỢU. Phật ở nước Chi Đề, ấp Bạt Dà La Bà Đề, là chỗ có con rồng độc tên là Am Bà La Đề Đà, hung bạo ác hại, không ai hoàn toàn có thể đến chỗ ấy, voi ngựa, bò dê, lừa, lạc đà, không loài nào hoàn toàn có thể tiếp cận, cho đến những loài chim cũng không dám bay trên hư không. Khi ngũ cốc chín đi thì nó lại phá diệt lúa thóc. Trưởng lão Sa Ca Đà du hành đến nước Chi Đề, ngài từ từ đến chỗ Bạt Đà La Ba Đề, ngủ qua đêm hôm ấy xong, sáng sớm ngài đắp y cầm bát vào xóm khất thực. Khi khất thực, nghe nói ở ấp này có độc long tên là Am Bà La Đề Đà hung bạo ác hại, nhân dân chim thú không được ở yên. Khi ngũ cốc chín thì nó lại phá diệt lúa thóc. Tôn giả nghe xong, sau khi đi khất thực thọ trai rồi, ngài đến nơi mà độc long Am Bà La Đề Đà ở, bèn ngồi dưới gốc cây bên bờ suối, trải tọa cụ đại tòa. Độc long nghe mùi liền nổi cáu, trong thân tuôn ra khói, trưởng lão Sa Ca Đà liền nhập chánh định, vận sức thần thông, trên thân cũng tuôn ra khói, độc long càng khó chịu, trên thân bèn tuôn ra lửa, Sa Ca Đà lại nhập vào hỏa quang tam muội, thân cũng tuôn ra lửa, độc long lại tuôn mưa đá, Sa Ca Già Đà liền biến mưa đá đều thành bánh, Câu Bỉnh, Tủy Bỉnh, Ba Ba La Bỉnh, độc long lại tuôn ra sấm sét, Sa Già Đà liền biến thành những thứ bánh hoan hỷ, độc long lại mưa cung tên, dao mác, Sa Già Đà liền biến thành hoa Ưu Bát La, Ba Đầu Ma, Câu Mâu Đà. Bấy giờ độc long lại mưa độc xà, rết, rắn hổ mang, con sên, Sa Già Đà liền biến làm chuỗi anh lạc hoa Ưu Bát La, anh lạc hoa chiêm bặc, anh lạc hoa Bà Sư, anh lạc hoa A Đề Mục Da già. Những thế lực như vậy của độc long đều phô bày hết trước Sa Già Đà, hiện ra những đức tính như vậy xong, vì không hề thắng tôn giả, nên nó liền mất oai lực và ánh sáng . Trưởng lão Sa Già Đà biết sức rồng đã kiệt, không hề làm gì được nữa, ngài liền biến thân mình nhỏ lại rồi chui vào lỗ tai rồng, sau đó đi ra nơi hai con mắt, từ hai mắt ra xong, lại vào hai lỗ mũi rồi ra nơi miệng, trụ ở trên đảnh đầu của độc long, kinh hành qua lại nhưng ngài không làm tổn thương độc long . Bấy giờ rồng thấy biết việc này, lòng rất kinh hãi, sợ sệt, lông trên thân dựng đứng, rồng bèn chắp tay đến trước trưởng lão Sa Già Đà nói Con xin quy y Ngài . Sa Già Đà bảo Ngươi chẳng cần quy y ta mà nên quy y thầy của ta, tức là quy y Phật. Rồng nói Con từ nay quy y tam bảo, chứng biết cho con trọn đời làm đệ tử, Ưu Bà Tắc của Phật . Độc long ấy thọ tam tự quy y, làm đệ tử Phật xong, lại không dám tạo những việc tàn ác như trước nữa, mọi người và chim thú đều đến được chỗ ấy, lúc lúa chín cũng không còn bị phá hoại nữa, do vậy mà tiếng lành của trưởng lão truyền khắp trong nước. Trưởng lão Sa Già Đà thu phục được độc long, khiến cho nó trở nên thuần thiện, mọi người và chim thú đến được nơi ở của rồng, lúc lúa chín cũng không còn bị phá hoại nữa. Nhân thế tiếng lành trưởng lão Sa Già Đà truyền khắp, mọi người đều thiết trai để thỉnh Ngài . Trong ấy, có một người nữ nghèo kính thỉnh trưởng lão Sa Già Đà, Sa Già Đà tĩnh mịch nhận lời. Người nữ ấy sắm sửa thức ăn gọi là cháo sữa, trưởng lão thọ nhận ăn xong. Người nữ tư duy rằng Vị sa môn này đã thọ dụng cháo sữa, hoàn toàn có thể khiến ngài sẽ phát lạnh. Thế là cô lấy rượu đem dâng cúng. Sa Già Đà vì không chú ý lấy uống xong, thuyết pháp cho cô ta nghe, rồi ngài xin từ giả ra đi. Khi đi qua khỏi hướng chùa, thời hạn sau liền thấm rượu và bị say, lúc về gần chùa bèn té xuống đất, chiếc Tăng Già Lê, đãi lọc nước, bát, tích trượng, túi đựng dầu, giày dép, ống đựng kim, … thân ở một nơi, vật phẩm ở một ngã, mê hồn không còn biết gì nữa . Bấy giờ Phật cùng với A Nan du hành đến nơi ấy, Phật thấy tỳ kheo này rồi, Ngài biết mà cố hỏi A Nan! Người này là ai? A Nan đáp Bạch Thế tôn, đây là trưởng giả Sa Già Đà. Phật liền bảo A Nan Ông hãy vì ta trải sàng tòa, chuẩn bị nước, vân tập chúng Tăng. A Nan vâng lời liền trải sàng tòa sắm nước tập Tăng xong, đến bạch Thế tôn Con vừa trải sàng tòa, chuẩn bị nước, tập Tăng xong, xin Phật biết thời. Phật bèn rửa chân, rồi an tọa, hỏi các tỳ kheo Các thầy có từng nghe thấy có độc long tên là Am Bà La Đề Đà hung bạo ác hại, trước đây không có ai dám đến chỗ này, ngay cả voi ngựa, bò dê, lừa, lạc đà đều không thể đến được. Cho đến các loài chim cũng không dám bay ngang trên hư không, lúc lúa thóc chín thì đều bị độc long phá diệt. Thiện nam tử Sa Già Đà có thể chiết phục độc long khiến cho nó trở nên thuần thiện, nay thì mọi người và chim thú đều an lành đến được bên dòng suối. Bấy giờ trong chúng có người thấy nói là thấy, người nghe nói là nghe… bạch Thế tôn. Phật bảo các tỳ kheo Ở nơi các thầy nghĩ sao, thiện nam tử Sa Già Đà bây giờ có thể chiết phục được con ễnh ương không? Đáp rằng Không thể, bạch Thế tôn. Phật dạy Thánh nhơn uống rượu đều có lỗi như thế, huống chi là kẻ phàm tục ư? Tội lỗi như thế cũng đều do uống rượu. Từ nay về sau nếu miệng nói là đệ tử ta, thì không được uống rượu, cho đến một giọt nhỏ như trên đầu ngọn cỏ cũng không được uống. Phật dùng các thứ quở trách lỗi lầm của việc uống rươu xong, bèn bảo các Tỳ kheo, Ưu Bà Tắc không được uống rượu. Có hai loại rượu nấu bằng ngũ cốc, rượu nấu bằng cây. Rượu nấu bằng cây tức là dùng những thứ gốc, cọng, lá, hoa quả hoặc những thứ hạt, những thứ dược thảo tạp làm rượu, sắc rượu, hương rượu, vị rượu uống vào hoàn toàn có thể say người, đó gọi là rượu. Nếu hàng Ưu Bà Tắc nếm qua khỏi cổ thì cũng gọi là uống, phạm tội. Uống rượu ngũ cốc, uống mỗi hớp đều mắc tội, hoặc uống rượu chua, hễ uống mỗi hớp đều phạm, hoặc uống rượu ngọt, hễ uống mỗi hớp đều phạm tội, hoặc uống chất men làm rượu hoàn toàn có thể làm say, uống mỗi hớp phạm tội, hoặc uống cặn bã rượu, hễ uống mỗi hớp đều phạm, hoặc uống chất giống rượu, sắc rượu, hương rượu, vị rượu mà khiến cho say người, tùy theo uống mỗi hớp đều phạm. Nếu chỉ làm sắc rượu mà không có hương rượu, không có vị rượu, không có đủ yếu tố để say người, cho đến uống những thứ khác đều không phạm. / . — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — –
SỐ 202 KINH HIỀN NGU Hán dịch Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương, Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch. Việt dịch Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. QUYỂN 4 Phẩm 22 ƯU-BÀ-DI MA-HA TƯ-NA Tôi nghe như thế này. Một thời Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ hoàn, nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo cung kính vây quanh. Bấy giờ Đức Phật ca ngợi một hành giả có trí tuệ rằng – Muốn thành Phật đạo cần phải vui thích diễn thuyết và đọc tụng kinh pháp, ngay cả giới bạch y thuyết pháp mà chư Thiên và Quỷ thần cũng đều đến nghe nhận, huống là bậc xuất gia kể cả lúc đang đi trên đường mà tụng kinh, nói kệ, thường có chư Thiên theo để nghe nhận; vì vậy cần phải siêng năng tụng kinh thuyết pháp. Vì sao cần phải biết? Đức Phật lúc mới đến tinh xá Kỳ hoàn, công đức của Ngài được lưu truyền rộng khắp không ai mà không nghe biết. Bấy giờ có một người tốt nghe danh tiếng và đức độ của Phật, hoan hỷ vô lượng, tán dương và ca ngợi. Vì sao? Trong thế gian khi người ác mà nghe danh tiếng của người tốt thì sinh lòng đố kỵ ganh ghét, họ vui thích điều xấu ác. Bậc Hiền thiện thì luôn luôn ngăn chận điều ác, tán dương điều lành, muốn điều lành quảng bá rộng rãi, thấy người làm ác biết đó là trói buộc phiền não đáng thương xót, tha thứ. Cho nên người lành khi nghe Đức Phật ra đời ca ngợi và tuyên dương cùng khắp các nước. Vào thời Ba-tư-nặc có một nước nhỏ lân cận goi là Tỳ-nựu-càn, trong đó có một ngôi làng nhiều người có tà kiến, không tin vào Phật, Pháp và Tăng. Trong ngôi làng đó có một người nữ tên là Ma-ha Ưuba-tư-na có công việc đi đến nước Xá-vệ chỗ vua Ba-tư-nặc. Sau khi công việc xong cùng tháp tùng theo các Ưu-bà-tắc nghe về công đức của Phật, muốn được gặp Phật nên nàng đến tinh xá Kỳ hoàn, thấy tướng hảo của Phật rực rỡ trang nghiêm, liền cúi đầu mặt đảnh lễ ngang chân Đức Phật. Khi ấy Đức Thế Tôn đang thuyết về năm giới cho đại chúng nghe Không sát sinh thì được thọ. Không trộm cắp thì được giàu có. Không tà dâm thì được mọi người ái kính. Không nói dối thì lời nói được người khác tin. Không uống rượu thì được thông minh sáng suốt. Nàng nghe xong rất hoan hỷ, bạch Phật – Cúi mong Đức Thế Tôn trao cho con năm giới để con suốt đời phụng trì thanh tịnh. Dẫu cho thân mạng này có mất đi trọn đời không hủy phạm, giống như kẻ đói coi trọng thức ăn, người khát yêu quý nước uống, như người bệnh được chăm sóc, con nay hộ trì giới cấm cũng như vậy. Đức Phật trao năm giới cho Ưu-ba-tư-na. Sau khi thọ giới xong, Ưu-ba-tư-na bạch với Đức Thế Tôn – Chỗ ở của con rất xa trên đường trở về mong Ngài ban cho con một vật nhỏ gì để con thọ trì. Đức Phật dạy – Quá khứ chư Phật nhiều như số cát sông Hằng đều nói kinh Pháp Cú, chư Phật vị lai số lượng như cát sông Hằng cũng nói kinh đó. Khi ấy Đức Thế Tôn dạy kinh Pháp Cú cho Ưu-ba-tư-na phụng hành. Nghe xong nàng làm lễ nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi. Trở về làng của mình, Ưu-ba-tư-na suy nghĩ và tưởng nhớ về tinh xá của Phật và lời Kinh Phật dạy, vào nửa đêm ở trên lầu cao nghĩ về công đức của Phật và đọc tụng kinh Pháp Cú. Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương muốn đến chỗ của Tỳ-lâu-lặc-xoa ở phương Nam, đem theo một ngàn Dạ-xoa ngang qua trên lầu của Ưu-ba-tư-na nghe tiếng tụng kinh tất cả đều ở trên không trung để lắng nghe, tán thán – Lành thay, lành thay! Chị em nào đang khéo nói về pháp yếu. Nay ta để lại Thiên bảo thì không thích hợp mà nên có những lời tốt lành. Tỳ-sa-môn nói – Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên từ Xá-vệ đến đang ở lại trong rừng này, sáng ngày mai ngươi đến đó thỉnh về nhà để cúng dường khi chú nguyện nhớ xưng danh tánh của ta. Ưu-ba-tư-na nghe những lời này ra nhìn lên không trung không thấy hình bóng giống như người mù trong đêm tối, không thấy ai liền hỏi – Các người là ai mà không nhìn thấy hình bóng, chỉ nghe được tiếng. Ở trên không đáp xuống – Ta là quỷ vương Tỳ-sa-môn thiên đi qua đây nghe được tiếng Kinh pháp liền ở lại đây. Ưu-bà-di liền nói – Ngài thuộc trời, tôi thuộc về người không liên quan gì sao gọi tôi là chị em. Thiên vương đáp – Đức Phật là Pháp Vương cũng là Từ Phụ của trời người, tôi là Ưu-bà-tắc, người là Ưu-bà-di đều là pháp hữu, nên tôi gọi là chị em. Khi ấy Ưu-bà-di lòng rất hoan hỷ hỏi – Này Thiên vương khi tôi cúng dường mà xưng danh tánh của Thiên vương có lợi ích gì? Thiên vương đáp – Ta là Thiên vương có Thiên nhĩ nghe được xa, xưng danh tánh ta thì tăng thêm thế lực của ta và oai đức của quyến thuộc, ta sẽ dùng thần lực này mà bảo các quỷ thần hộ niệm cho người này để tăng phước lộc cho họ và trợ giúp cho họ khỏi bị những tai ương hoạn nạn. Nói vậy rồi Thiên vương liền ra đi. Bấy giờ Ưu-bà-di hân hoan vui mừng, thầm nhủ “Đức Phật trải qua hàng trăm kiếp tinh tấn tu hành khổ hạnh chỉ vì chúng ta, nhờ ân đức của Phật khiến cho quỷ vương trở thành chị em với ta.” Trong đêm đó nàng không hề ngủ say, trời vừa tờ mờ sáng mới ngủ được chút ít. Mỗi sáng trong nhà thường sai người vào rừng lấy củi, sáng hôm đó vừa sai người vào rừng leo lên cây để lấy củi, trông từ xa thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và năm trăm vị Tỳ-kheo đang trú tại ngôi rừng này tinh tấn tọa thiền tụng kinh. Trong khi đó người đi hái củi lười biếng leo lên cây sa thảo nằm, thầm nghĩ “Lúc trước ta cùng đại gia đi đến nước Xá-vệ cho nên từ xa thấy hai vị Tôn giả đó, đã biết là hai vị Tôn giả đó đại gia rất cung kính, nay ở trong ngôi rừng này đại gia ta không biết, nếu như ta từ từ hái củi cho xong rồi về thưa lại với đại gia e rằng sẽ có người khác đến thỉnh trước đi ắt ta có lỗi. Đối với việc này chưa cần thiết, trước hết phải lo xong việc quan trọng này đã sau đó mới hái củi. Việc này cũng chẳng mệt nhọc gì!” Vị ấy liền leo xuống đến chỗ các Tôn giả đầu mặt lạy ngang chân rồi thưa với Tôn giả – Thưa chư Tôn giả, đại gia của con tên là Ưu-ba-tư-na xin đảnh lễ và thăm hỏi chư Tôn giả. Các Tôn giả đáp – Chúc phúc cho Ưu-ba-tư-na được yên ổn, an lạc và giải thoát sinh tử. Vị ấy thưa – Thưa chư Tôn giả, đại gia của con cung thỉnh chư Tôn giả hôm nay đến nhà để thọ trai. Cúi mong chư Tôn giả quang lâm. Các Tôn giả đáp – Người trở về nhà, nói với Ưu-bà-di Ưu-ba-tư-na cần phải biết lúc nào là hợp thời. Đức Phật tán thán năm trường hợp bố thí sẽ đem lại phước đức vô lượng Bố thí cho người từ xa đến, bố thí cho người đi xa; bố thí cho người bệnh hoạn; bố thí thức ăn uống cho người đói khát và bố thí cho người hiểu biết chánh pháp. Năm trường hợp bố thí như vậy trong hiện tại đạt được phước đức lớn. Vị ấy nhận lời chỉ giáo rồi từ biệt ra khỏi rừng cấp tốc về nhà. Về đến nhà vị ấy hỏi người hầu – Đại gia hiện đang ở đâu? Đáp – Đang ở trên lầu cao kia, đầu đêm cuối đêm không ngủ nay vừa mới chợp mắt. Vị ấy bảo người hầu hãy lên đánh thức dậy. Thị tỳ nói không dám. Vị ấy liền nói – Nếu bạn không dám để tôi lên đánh thức. Thị tỳ nói tùy ý bạn. Vị ấy liền lên lầu trên đánh thức đại gia dậy. Ưu-ba-tư-na hỏi – Ngươi có chuyện gì? Vị ấy nói – Thưa đại gia, Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đang trú trong khu rừng kia. Ưu-ba-tư-na rất hoan hỷ liền lấy hai chiếc bông tai bằng kim hoàn thưởng cho vị ấy. Vị ấy nói tiếp – Tôn giả có những lời giáo huấn tốt đẹp cho đại gia. – Giáo huấn điều gì ngươi nói ra đi. Vị ấy nói cặn kẽ năm trường hợp bố thí cho nàng nghe. Nghe xong, Ưu-bà-di càng thêm hoan hỷ giống như hoa sen thấy được ánh sáng mặt trời liền nở bung ra, sự khai nở của Ưu-bà-di cũng như thế. Nàng liền lấy chuỗi anh lạc, châu báu tặng thêm cho người ấy. Vị ấy thưa tiếp – Đại gia dậy rửa tay rồi lo sắm sửa đầy đủ vật thực để cúng dường. Con đã nhận lời chỉ bảo của đại gia vào cung thỉnh hai Tôn giả và năm trăm vị đệ tử trong ngày hôm nay đến thọ thực, mong cho thời cúng dường được tốt đẹp. Sau khi nghe vậy sự hân hoan của nàng càng tăng thêm và nói – Ta muốn thực hiện việc đó. Vì ngươi đã khiến ta vui mừng không nói nên lời, nay ta phóng thích ngươi, ngươi không thuộc về ta nữa. Như những lời tốt đẹp của người, tại gia hay xuất gia, thành ấp làng xóm tùy theo chỉ mà gặp được ánh sáng tốt đẹp đó. Bấy giờ Ưu-ba-tư-na dậy rửa tay và bảo gia nhân và những người chung quanh, người làm thức ăn, người lo đốt lò, người lo nước non, người trải chiếu, người lo cắm hoa, phân bố các công việc xong, tự tay mình lấy thuốc giã hòa vào nhau. Mọi vật thực đã bày biệ xong, nàng cho sứ giả đó đến chỗ các Tôn giả kịp thời thưa – Thức ăn đã bày biện xong xin thỉnh chư Tăng. Hai Tôn giả và các vị Tỳ-kheo vận y cầm bát, đến nhà Ưu-bà-di theo thứ tự mà ngồi. Khi ấy Ưu-ba-tư-na tự tay lấy nước rưới xuống các loại thức ăn. Sắc, hương và mùi vị đầy đủ. Tất cả các hành tùy theo nghiệp mà thọ nhận quả báo. Bố thí thức ăn có màu sắc đẹp thì kết quả có nhan sắc tốt đẹp. Thức ăn có hương thơm thì kết quả được danh tiếng thơm xa, đầy đủ các mùi vị thì kết quả được ăn uống tùy thích, sức lực khỏe mạnh. Sau khi thọ thực xong Tôn giả Xá-lợi-phất nói lời chú nguyện. Khi đang chú nguyện Ưu-ba-tư-na bạch – Thưa Tôn giả, xin Tôn giả xưng tên Tỳ-sa-môn Thiên vương. Tôn giả Xá-lợi-phất chú nguyện xong rồi quay lại hỏi Cô và Tỳ-sa-môn Thiên vương có nhân duyên gì mà xưng danh tánh ra. Ưu-ba-tư-na thưa – Thưa Tôn giả, sự việc thật là hy hữu! Đêm hôm trước khi con đang tụng kinh Pháp Cú, vị Thiên vương kia đang trú trên không trungnghe con tụng kinh tán thán rằng “Lành thay, lành thay! Chị em khéo nói diệu pháp.” Con ra nhìn lên không trung hỏi “Ông là ai mà không thấy hình mà chỉ nghe tiếng.” Có tiếng đáp rằng “Ta là quỷ vương Tỳ-sa-môn nghe ngươi tụng kinh cho nên dừng lại đây để nghe, định để lại Thiên bảo cho người nhưng không thích hợp. Nay nói những lời tốt đẹp cho ngươi.” Con liền hỏi “Những lời tốt đẹp đó là gì?” Thiên vương nói “Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ngày mai đến nơi ngôi rừng kia, ngươi nhớ đến cung thỉnh về nhà cúng dường thọ thực, khi nói lời chú nguyện nhớ xưng danh tánh của ta.” Con liền hỏi “Xưng danh tánh của ngài có lợi ích gì?” Thiên vương đáp “Như sự việc đã nói ở trên…” Vì sự việc đó nên con xưng danh tánh kia. Tôn giả Xá-lợi-phất nói – Thật là kỳ diệu! Cô là người, vị ấy là trời mà có thể hiểu ý nhau và cùng người trao đổi, sao lại gọi là chị em? Ưu-bà-di đáp – Con lại có một sự việc rất là thân thiện với con như chị em gái cùng qua lại với nhau. Khi con bố thí vị thần này nói với con “Đây là A-la-hán, đây là A-na-hàm, đây là Tư-đà-hàm, đây là Tu-đà-hoàn, đây là phàm phu, đây là trì giới, đây là trí tuệ, đây là ngu si.” Con tuy nghe nói về sự phân biệt này nhưng tâm ý của con không phân biệt. Đối với phàm phu, phạm giới… con cũng cúng dường như A-la-hán. Ngài Xá-lợi-phất nói – Cô thật là kỳ diệu! Trong việc làm này mà sinh được tâm bình đẳng. Ma-ha Tư-na nói – Lại nữa, con còn có một sự việc rất kỳ diệu, thân con là nữ lại ở tại gia, mà trừ được hai mươi thân kiến đắc quả Tu-đà-hoàn. Ngài Xá-lợi-phất tán thán – Cô thật là kỳ diệu! Làm thân nữ mà chứng đắc được quả vị Tu-đà-hoàn. Ưu-bà-di thưa – Con còn có một sự việc rất là kỳ diệu nữa, con có bốn người con đều có ác tà kiến, chồng con cũng là tà kiến rất sâu nặng. Đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng không hiểu không kính. Nếu con có cúng dường Tam bảo và bố thí cho người bần cùng, liền sinh tâm đố kỵ ganh ghét. Còn nói rằng gia nghiệp này do chúng tôi siêng năng lao động cực nhọc mới có được mà đem làm những chuyện không đâu. Tuy nghe nói những lời như vậy mà đạo tâm của con và những việc tu tập hành thiện không bao giờ thoái thất và hờn giận. Tôn giả Xá-lợi-phất dạy – Theo quy ước bình thường của người phụ nữ, trong tất cả mọi lúc thường không được thoải mái. Thuở nhỏ thì được cha mẹ chăm sóc; vào tuổi tráng niên lập gia đình thì được chồng bảo hộ; về già thì được con cái nuôi dưỡng. Vậy mà cô vượt ra ngoài vòng cương tỏa của chồng con để được tự do tu tập và hành thiện. Này Ưu-bà-di, nay tôi có vài lời như sau, hãy cố gắng ghi nhớ. Đây là một việc rất quan trọng, đó là Đức Phật, Thế Tôn chiều nay sẽ đến ngôi rừng Tỳ-nựucàn-đặc này, tôi báo cho thí chủ biết như vậy rồi tôi sẽ trở về trú xứ. Vị Ưu-bà-di thưa – Điều mà Tôn giả cho biết thật là tốt đẹp không gì hơn. Sau khi Tôn giả ra đi, thí chủ Ưu-ba-tư-na lo sửa soạn vật thực để cúng dường Thế Tôn. Khi Đức Thế Tôn đến ngôi rừng kia, Ma-ha Tư-na rất hoan hỷ gọi tất cả những Ưu-bà-di đến chiều cùng đi đến chỗ Phật. Từ xa họ đã thấy hào quang của Đức Thế Tôn rất là thù diệu, năm căn hoan hỷ. Tất cả đều vui mừng phấn khởi đến gần làm lễ dâng lên cúng dường Phật các loại hoa hương, rồi ngồi qua một bên nghe Phật thuyết pháp Luận về bố thí và giới pháp, về đoạn dục và sinh Thiên; luận về Niết-bàn. Sau khi nghe pháp xong, các Ưu-bà-di muốn trở về nhà, chắp tay bạch Phật – Những người trong thôn của con đều theo tà kiến, không hiểu Phật pháp, chẳng biết ân đức của Phật, không thích bố thí. Các Sa-môn, Bà-la-môn khi vào thôn này khất thực thường đến nhà con. Cúi mong Đức Thế Tôn lúc nào đó đến trú tại thôn của chúng con để chúng con cúng dường bốn loại vật dụng cho Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Bạch xong, họ đảnh lễ lui ra và lần lượt xem qua các chỗ nghỉ ngơi của các vị Tỳ-kheo. Cuối cùng thấy một vị Tỳ-kheo đang bị bệnh nằm trong lều cỏ, nàng liền hỏi Đại đức – Thưa Đại đức, Đại đức bị bệnh gì? Vị Tỳ-kheo đáp – Trên đường đến đây, bốn đại không điều hòa, khốn khổ bị bệnh. Ưu-bà-di thưa – Đại đức bị bệnh nên ăn thức ăn gì? Đáp – Theo thầy thuốc nói nên ăn loại nước thịt mới hầm. Ưu-bà-di nói – Xin ngài yên tâm ngày mai con sẽ dâng cúng. Đại đức đáp – Vâng. Ưu-bà-di đảnh lễ rồi trở về nhà, tự suy nghĩ và nói thầm “Ta có được một lợi ích lớn là diện kiến được Đức Phật Thế Tôn, Xá-lợi-phất và các đại Tôn giả khác.” Niềm vui càng tăng thêm, đến nỗi nàng không nhớ ra ngày mai là vào ngày mười lăm, vào ngày này theo quốc pháp là không được giết hại, nếu giết hại là trái với lệnh nước. Sáng ngày mai, nàng liền sai người cầm tiền tìm mua loại thịt mới còn nóng, người giúp việc vâng lời đi khắp các chợ tìm mua nhưng không có đành trở về không, thưa với đại gia – Hôm nay là ngày mười lăm chợ không giết thịt. Ưu-bà-di nói với người giúp việc – Ngươi hãy cầm một ngàn đồng tiền chỉ mua một trăm tiền thịt số còn lại cho ngươi. Người hầu cầm tiền ra đi cố tìm cho ra nhưng vì hình phạt của vua quá nặng không có ai dám. Vị ấy trở về trình bày sự việc như vậy, Ưu-bà-di lo lắng buồn rầu nói – Ngươi hãy đem hết số tiền này ra mua cho được. Người giúp việc cầm tiền đến các hàng thịt cố mua cho được, mặc dầu các người hàng thịt rất ham lợi, nhưng phép vua quá nghiêm, quá nặng, sợ mất mạng nên không ai dám. Người giúp việc trở về chẳng được việc gì. Khi ấy Ưu-bà-di càng thêm ưu não, nghĩ về bệnh tình của vị Tỳ- kheo đã nhận lời cầu thỉnh của ta, mà ta đã tìm hết cách không thể cúng dường cho Đại đức được. Sợ rằng Đại đức sẽ mất mạng, ta sẽ mang tội. Đang suy nghĩ tìm cách gì, Ưu-ba-tư-na tự nhiên nhớ đến tích xưa Bồ-tát vì con chim bồ câu tự cắt thịt nơi thân mình để cứu sống, huống nay so với một vị Tỳ-kheo thì hơn nhiều, ta nào có tiếc chi thân mạng của mình mà không cứu giúp. Suy nghĩ xong, nàng lựa một người đáng tin cậy nhất dẫn bà ta vào một tịnh thất, tắm sửa sạch sẽ ngồi trên chiếc giường, rồi sai người hầu cắt lấy thịt trong thân mình. Người hầu vâng theo lệnh lấy cây dao thật sắc cắt đi một thớ thịt. Khi lát dao vừa xuyên qua thịt, nàng đau đớn vô cùng chết ngất nằm bất tỉnh. Người hầu dùng loại vải trắng gói vào trong trộn với các thứ thảo dược khác nấu thành một loại thuốc “thần dược” đem đến cho thầy Tỳ-kheo chữa bệnh. Vị Tỳ-kheo nhận lấy phương thuốc của một đàn-việt đầy niềm tin dâng cho, uống vào liền khỏi bệnh. Người chồng của bà, thuộc dòng Bà-la-môn không có mặt tại đó, từ xa về hỏi – Ma-ha Tư-na đang ở đâu? Đáp – Ở phòng trong. Người chồng vào trong thấy nhan sắc khác thường liền hỏi vì lý do gì mà nhan sắc tiều tụy như vậy? Đáp – Thiếp nay vì bệnh xâm nhập. Người chồng ưu sầu cho tìm các vị lương y đến để chẩn bệnh. Lương y hỏi – Bà đau thế nào? Phát bệnh ra sao? Từ lúc bị bệnh đến giờ có lúc nào không đau nhức không? Nàng Ưu-ba-tư-na đáp – Bệnh của tôi lúc nào cũng đau, như hiện giờ đau nhức ghê gớm, không hết cơn đau! Vị lương y xem mạch không biết được nguyên nhân của bệnh nên im lặng ra về. Người chồng khóc lóc, hỏi nàng bị bệnh gì? Vì tình nghĩa giữa chúng ta nên nói ra đi. Người vợ đáp – Các vị lương y sáng suốt vô cùng mà còn không biết, huống gì thiếp làm sao biết được! Vị Bà-la-môn hỏi những người trong nhà – Mọi người có biết bệnh tình của Ma-ha Tư-na không? Mọi người đều trả lời – Thưa đại gia, chúng tôi không biết. Đại gia có thể hỏi người hầu thân cận bà chủ sẽ rõ. Khi đó vị Bà-la-môn gọi người hầu cận đang ở trong chỗ vắng vẻ lại hỏi – Tại sao bà chủ bị bệnh? Người thị tỳ đáp – Do có một Tỳ-kheo bị bệnh, bà chủ phải cắt thịt làm thuốc dâng cho thầy đó. Người chồng nghe vậy tức giận đem lòng làm hại Phật, Pháp, Tăng, vừa đi vừa lớn tiếng nói rằng – Sa-môn Thích tử ăn thịt người, giống như bọn Ban túc vương. Bấy giờ có một Ưu-bà-tắc tín tâm nghe Bà-la-môn hủy báng Phật Pháp, Tăng, buồn rầu không vui, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ. Đứ Thế Tôn hỏi – Các ngươi có việc gì mà buồn rầu không vui như vậy? – Bạch Đức Thế Tôn có một Bà-la-môn đi khắp nơi lớn tiếng hủy báng Phật, Pháp, Tăng giống như bọn Ban túc vương trước đây ăn thịt người. Nay Sa-môn Thích tử, ăn thịt người cũng như vậy không khác. Cúi mong Đức Thế Tôn dạy cho các Tỳ-kheo chớ ăn thịt người. Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhân sự việc này truyền nhóm họp các Tỳ-kheo Tăng, gọi các Tỳ-kheo bị bệnh. Khi đó các Tỳ-kheo bị bệnh nghe Đức Thế Tôn dạy trong lòng hoan hỷ suy nghĩ “Thế Tôn là Bậc Đại Từ quan tâm đến chúng ta.” Thân tuy ốm yếu nhưng họ cố gắng đến nơi Thế Tôn đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Đức Phật dạy – Này các quý tử, các vị bị bệnh gì? Vị Tỳ-kheo bạch Phật, con bị bệnh làm sinh sầu não, nay gặp được Đức Thế Tôn bệnh được thuyên giảm phần nào. Đức Thế Tôn hỏi tiếp – Hôm nay ông ăn uống gì? Vị Tỳ-kheo thưa – Hôm nay con đã ăn nước hầm thịt. Đức Phật hỏi – Thịt ông đã ăn là thịt tươi hay thịt khô? Đáp – Là thịt tươi nước Thiên trúc thịt nấu không để qua đêm. Thịt ăn hoặc tươi hoặc khô. Đức Phật nói – Này thiện nam tử, khi con ăn thịt có hỏi, thịt này là tịnh hay bất tịnh? Đáp – Bạch Thế Tôn, bệnh con đã lâu ngày gặp được liền ăn thật sự chưa hỏi. Đức Phật dạy – Này Tỳ-kheo, tại sao ông ăn thịt bất tịnh, pháp của Tỳ-kheo là khi đàn việt cúng dường thức ăn trước hết phải hỏi đây là thịt gì? Nếu đàn-việt nói, đây là tịnh nhục, phải quan sát nhiều lần tin xong mới ăn, nếu không tin thì không ăn. Bấy giờ Đức Thế Tôn ngăn cấm các Tỳ-kheo nếu các bất tịnh nhục đều không được ăn; nếu thấy, nghe là thịt bất tịnh cũng không được ăn. Như thế cần phải phân biệt, nên hay không nên ăn. Bấy giờ Ưu-bà-di nghe Đức Phật, Thế Tôn chính do mình mà cấm các Tỳ-kheo ăn thịt rất là đau khổ, vì mình mà các Tỳ-kheo không được ăn thịt liền nói với chồng – Nếu chàng quan tâm đến tôi thì ngày mai thỉnh Đức Phật và chúng Tăng về đây thiết lễ cúng dường thật chu đáo. Nếu không làm vậy, thà tôi bỏ mạng, tôi sẽ lấy thịt từ thân tôi đem bố thí cho mọi người. Ông đừng có hối tiếc. Vì thương vợ nên vị Bà-la-môn mới thực hiện, nhưng Bà-la-môn này vốn không có lòng tin và tôn kính Tam bảo, chiều theo ý vợ vào trong rừng đến nơi Đức Phật trú nói rằng – Thưa Sa-môn Cù-đàm và chúng đệ tử, ngày mai tôi mời đến nhà thọ thực. Đức Phật im lặng nhận lời vị Bà-la-môn biết Đức Phật nhận lời mời liền trở về nhà nói với vợ là Sa-môn Cù-đàm đã nhận lời mời. Vị Ưu-bà-di sai các người giúp việc trong nhà lo bày biện các loại thức ăn, hương hoa, chỗ ngồi đầy đủ, sáng ngày mai khi đến giờ sai người vào trong rừng bạch với Đức Phật – Thức ăn đã sửa soạn xong, cúi mong Bậc Sáng Suốt biết thời gian thích hợp. Đức Phật và các Tỳ-kheo vận y cầm bát đến nhà Bà-la-môn kia, theo thứ tự mà ngồi. Sau khi an tọa xong, Đức Phật hỏi – Ma-ha Tư-na hiện nay ở đâu? Người chồng đáp – Ở tại trong phòng. Đức Phật dạy – Hãy gọi lại đây! Vị Bà-la-môn liền đến nói – Thầy của em gọi em đến. Vị Ưu-bà-di bảo chồng – Nhờ chàng nói là Ma-ha Tư-na cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng vì bệnh không ngồi dậy được. Đức Phật dạy Tôn giả A-nan – Ông qua gọi Ưu-ba-tư-na ngồi dậy gặp Phật. Ngài A-nan liền qua nói với Ưu-ba-tư-na – Thế Tôn gọi cô đến gặp Ngài. Khi ấy Ưu-ba-tư-na nằm ở trên giường chắp tay bạch – Con xin đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, trong tư tưởng muốn gặp Phật như đói cần ăn, khát cần uống, lạnh cần ấm, nóng cần mát, như mất đạo cần được đạo. Con nay trong tư tưởng muốn gặp Phật cũng như thế, tâm tuy muốn qua nhưng thân không chìu theo. Ngài A-nan bạch Phật như Ưu-ba-tư-na đã nói. Đức Phật dạy – Này A-nan, ông hãy cho người khiêng cái giường đến đây. Ngài A-nan vâng lời cho người khiêng giường đến đặt trước Đức Phật. Bấy giờ Đức Như Lai phóng đại quang minh, bất cứ ai tiếp xúc được ánh sáng của chư Phật thì người cuồng hóa ra chánh, người loạn hóa ra định, người bệnh hóa ra lành. Sau khi Ưu-ba-tư-na tiếp xúc được ánh sáng của Phật liền hết thống khổ. Khi ấy có vị Thần trong nhà dùng loại nước rửa sạch vết thương và cho uống thuốc vào, thân thể vị ấy được bình phục như cũ. Ưu-ba-tư-na liền đứng dậy xuống khỏi giường tự tay cầm bình vàng rắc một loại nước vào từng món thức ăn, sắc hương, mùi vị đầy đủ. Đức Phật thọ thực xong rửa tay dọn bát và thuyết vi diệu pháp cho Ma-ha Tư-na. Ngài giảng về Bố thí, Trì giới, quả báo Nhân, Thiên, đau khổ sinh tử, sự tổn hại của tham dục, xuất ly và diệt, lạc, mười hai nhân duyên luân chuyển không dừng. Ưu-ba-tư-na nghe Phật dạy đoạn trừ được xan tham, tật đố, đắc đạo quả A-na-hàm. Tất cả quyến thuộc trong gia đình đều thọ năm giới. Còn vị Bà-la-môn xả ly tà kiến, kính tín Tam bảo, thọ giới Ưu-bà-tắc. Bấy giờ trong bốn hội chúng có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, A-la-hán. Có người phát đại đạo tâm. Tất cả lớn nhỏ đều hoan hỷ. Bấy giờ trong chúng có người khiếp sợ sinh tử, suy nghĩ rằng “Người phụ nữ này có một sức mạnh như thế, lấy thịt nơi thân mình để cúng dường Sa-môn thật là kỳ diệu! Chúng ta xả bỏ làng xóm ruộng vườn có gì là khó.” Liền sau đó, có một số người xả bỏ làng xóm, gia đình, quyến thuộc, xuất gia cầu đạo, siêng năng tinh tấn, đoạn trừ kết lậu thành A-la-hán. Khi ấy mọi người ở trong xóm làng ấy tin và thực hành Phật pháp, lưu truyền rộng rãi. Nhờ nhân duyên này mọi người có ý chí vững mạnh. Cho đến người nữ đọc tụng kinh điển, không tiếc thân mạng, đắc các đạo quả. Huống nữa đối với bậc Trượng phu cần phải siêng năng thực hành đạo nghiệp sao mà không thành đạo quả được. Nhờ nhân duyên này, các thiện nam tử siêng năng tu tập thiện pháp, khiếp sợ sinh tử, liền giảm trừ bớt các kết sử, xa lìa được sinh tử. Tuy rằng vào thời mạt pháp không thể được độ thoát, nhưng nhờ công đức này mà nhận được phước đức vô cùng. Đức Di-lặc Thế Tôn không lâu nữa, còn năm mươi sáu ức mười ngàn vạn năm nữa sẽ ra đời thành Phật. Sẽ rộng nói diệu pháp cho các người. Ở trong đó tùy theo sở cầu mà thành được đạo quả Tam thừa, tất giải thoát. Tất cả hội chúng đảnh lễ và phụng hành.
Người xuất gia có để tâm thiết tha đến sự tồn vong của chánh pháp, có thao thức ưu tư đến vấn đề “Tre tàn măng mọc”, có hoài bão “Thiệu long Thánh chủng, kế vãn khai lai” thì không thể không để tâm nghiên cứu học hỏi tường tận về các pháp Yết-ma, nhất là Yết-ma truyền giới cụ túc, độ người xuất gia. >>Tư liệu nghiên cứu Đứng về mặt giới pháp, hàng ngũ đệ tử Phật được chia làm 7 nhóm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Nhưng tổng quát mà nói thì chỉ có hai đoàn thể chính bao gồm tất cả, đó là đoàn thể xuất gia và tại gia. Được gọi là đệ tử Phật, bất luận là tại gia hay xuất gia, đều phải lãnh thọ giới pháp, tức là phải trải qua một buổi lễ phát nguyện chấp hành những quy ước sinh hoạt truyền thống trong phạm vi của đoàn thể mình theo một nguyên tắc nghi lễ đã được ấn định, nhằm mục đích để làm nhân tố thực hiện mục tiêu chung nhất là phát triển tâm linh, nâng cao phẩm chất đạo đức cá nhân, làm chất liệu bồi dưỡng trí tuệ tiến đến giác ngộ và giải thoát. Trong Luật học, được gọi là chính thức thọ giới khi giới tử đối trước hội đồng thập sư gồm một vị Hòa thượng, một vị Yết ma, một vị Giáo thọ và bảy vị Tôn chứng của Tăng già, chí thành nhận lãnh. Khi điều khoản của Giới Giới tướng được đọc lên, giới tử nghe rõ, hiểu thấu và nhận lãnh bằng sự phát thệ dũng mãnh thì mới gọi là thành tựu. Tuy cả hai đoàn thể đều cũng phải lãnh thọ giới pháp như thế, nhưng do bản chất và sự quan hệ có tính chất cá nhân hay tập thể trong khi hành trì mà sự truyền trao giới pháp cho hai đoàn thể có sự khác biệt nhau. Bản chất của giới tại gia là xây dựng và hoàn thiện về tư cách đạo đức của một cá nhân. Khi đã trở thành một phật tử sau khi đã phát thệ vâng giữ những nội quy của đoàn thể tại gia, người tại gia có thể tiến bộ, phát triển hay sa đọa, trụy lạc trên đường tu tập trong mục tiêu giải thoát, giác ngộ thì chỉ là vấn đề cá nhân của người ấy mà thôi. Do đó, việc truyền thọ giới pháp cho đoàn thể tại gia có thể do một người truyền cho nhiều người, dĩ nhiên người truyền giới cũng phải có một số điều kiện tối thiểu nào đó, như phải là một Tỳ kheo hay một Tỳ kheo ni thanh tịnh chẳng hạn. Nhưng đối với người xuất gia, vì sự tiến bộ, phát triển hay sa đoạn, thoái hóa của một cá nhân không phải chỉ riêng cá nhân ấy đơn phương chịu trách nhiệm mà lại có liên hệ đến vấn đề hưng thịnh hay suy tàn của Tập thể Tăng già, và từ đó đưa đến sự hưng thịnh hay suy tàn của đạo pháp. Đối với người xuất gia, vì sự tiến bộ, phát triển hay sa đoạn, thoái hóa của một cá nhân không phải chỉ riêng cá nhân ấy đơn phương chịu trách nhiệm mà lại có liên hệ đến vấn đề hưng thịnh hay suy tàn của Tập thể Tăng già, và từ đó đưa đến sự hưng thịnh hay suy tàn của đạo pháp. Tăng già là một trong ba ngôi báu biểu hiện sự tồn tại của Phật pháp, và cũng vì Tăng già là người trực tiếp thay Phật tuyên dương chánh pháp, như ta từng biết “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân”. Do đó vấn đề truyền thọ giới pháp cho người xuất gia phải do tâp thể Tăng truyền cho một người và sự tiến hành truyền thọ cũng phải được chấp hành nghiêm chỉnh theo nhưng quy tắc đã chế định sau khi đẫ nghiệm xét kỹ lưỡng tư cách của giới sư cũng như của giới tử. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến sự truyền giới pháp cho đoàn thể xuất gia. Nhưng trước khi đi vào vấn đề, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần biết qua một số quan điểm khác nhau về tính chất thọ giới như sau 1 Giới tự nguyện Trong Luật học, được gọi là chính thức thọ giới khi giới tử đối trước hội đồng thập sư gồm một vị Hòa thượng, một vị Yết ma, một vị Giáo thọ và bảy vị Tôn chứng của Tăng già, chí thành nhận lãnh. Khi điều khoản của Giới Giới tướng được đọc lên, giới tử nghe rõ, hiểu thấu và nhận lãnh bằng sự phát thệ dũng mãnh thì mới gọi là thành tựu. Nhưng trong một vài trường hợp, khi không thỏa mãn nhu cầu chính thức như vậy, người ta có thể thực hiện một cuộc tự phát thọ giới gọi là Giới tự nguyện như Hoàng hậu Thắng Man trong kinh Thắng Man. Lục tổ Huệ Năng nói “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không ô nhiễm” nếu hồi quang phản chiếu, người ta có thể làm hiển lộ giới tự tánh ấy ra trong khi hành động. 2 Giới lý tưởng Còn gọi là thọ giới viên đốn, đây là chủ trương của Thiên Thai Tông, một tông phái lấy tinh thần viên đốn thuần túy đại thừa trong kinh Pháp Hoa làm tôn chỉ. Theo chủ trương của tông phái này, tất cả giới luật đều có sẵn trong tâm ta, nó không phải là sản phẩm tạo ra do sự nổ lực thực hiện qua thân nghiệp và khẩu nghiệp. Giới lý tưởng ngày còn gọi là giới tự hữu hay tự tâm bản cụ giới, đây là chủ trương đặc biệt của Thiên Thai Tông. 3 Giới tự tánh Đây là chủ trương của Thiền Tông. Theo tông phái này, ý niệm giới luật nguyên lai sẵn có trong tự tính của con người. Như Lục tổ Huệ Năng nói “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không ô nhiễm” nếu hồi quang phản chiếu, người ta có thể làm hiển lộ giới tự tánh ấy ra trong khi hành động. Tuy chủ trương như thế, nhưng trên mặt hình tướng của sự truyền thọ giới pháp cũng được Thiền Tông đặc biệt chú trọng, như ta thấy, dù đã ngộ được chơn tâm và đã được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ấn chứng, nhưng khi cơ duyên hành đạo đã đến, Ngài Huệ Năng đến chùa Pháp Tánh xin đăng đàn thọ cụ túc giới với Hòa thượng Trí Quang Luật Sư, giới đàn do Pháp sư Ấn Tông đứng ra tổ chức. Trong 3 quan điểm trên đây, giới tự nguyện là trường hợp duy nhất và đặc biệt được phép tự thọ, nhưng thường được áp dụng cho sự thọ giới Bồ Tát, còn giới lý tưởng và giới tự tánh tuy chủ trương vốn sẵn có trong tâm vẫn không chủ trương tự thọ. Trong ba tạng kinh điển, không nơi nào cho phép có sự tự thọ đối với các Tỳ kheo hữu học dù cho vị ấy đã thành tựu Bất Lai A-na-hàm, chỉ trừ vị Thánh giả A-la-hán. Bởi vì trong một ý nghĩa nào đó, tự thọ là một hình thức phá hòa hiệp Tăng, vì làm như thế là mặc nhiên phủ nhận sự hiện hữu Tăng gia. Đây là một nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự phân hóa đoàn thể đệ tử xuất gia của Phật. Ngoài ra sự truyền thọ giới pháp còn có một điểm quan trọng hơn nữa, đó là hình thức trang nghiêm của giới đàn và sự tác pháp Yết Ma long trọng đã tác động mạnh vào tâm tư của giới tử trong khi thọ giới, làm cho giới thể được phát sinh. Vì tính chất quan trọng của giới thể như thế nên để cho giới thể phát sinh viên mãn, tư cách của người truyền giới và người thọ giới cũng phải được nghiệm xét kỹ càng trước khi tiến hành truyền thọ. Dù thời gian thọ giới quá ngắn ngủi so với thời gian giữ giới dài suốt cuộc đời, nhưng nó lại là thời điểm cực kỳ quan trọng có tính cách quyết định sự tuân thủ giới hạnh có nghiêm túc hay không trong suốt cuộc đời hành trì của giới tử. Bởi vì giây phút đầu tiên ấy, tâm lý giới tử được tác động mạnh do hình thức truyền giới trang nghiêm làm phát sinh ra cái tinh thể của giới vốn có trong tự tánh, nhờ đó mà về sau có những trường hợp người giữ giới lâm vào hoàn cảnh có thể phạm giới một cách dễ dàng nhưng vẫn kềm chế được. Cái tinh thể ấy là “Giới thể” hay còn gọi là “Giới thể vô biểu”. Giới thể này rất quan trọng, nếu thiếu, việc gìn giữ giới khó mà hoàn bị được. Giới này là vô biểu nghiệp, tức năng lực tác ý luôn luôn được hoạt động sâu mạnh do một ấn tượng thâu nhập được trong khi thọ giới một cách trung thành. Sự thực, đó là kết quả của sự tự nguyện diễn ra vào lúc trang nghiêm thọ giới. Năng lực này nó tự bộc lộ trong tư tưởng, trong ngôn ngữ, trong hành vi bất cứ lúc nào cần thi hành nhiệm vụ, nhờ đó, người ta sẽ hành động thích ứng với giới pháp. Có thể nói, giới thể là sức mạnh đạo đức hoạt động sâu thẳm trong tâm chỉ đạo hành vi giữ giới. Nói chung, sự quan trọng của Luật học là được đặt trên cái tinh thể của giới thể, tức thế lực được tạo ra khi phát nguyện, nó luôn luôn tác động mãnh liệt chống lại bất cứ sự vi phạm nào đối với sự tự nguyện đó. Hữu Bộ Câu Xá Tông cho giới thể thuộc sắc pháp Vô biểu sắc, còn Thành Thật Tông lại cho là một pháp đặc biệt phi sắc phi tâm, Duy Thức Pháp Tướng Tông thì coi nó như một hình thức tự giác được hiện hành từ chủng tử của tư tâm sở Cetana khi thọ giới. Đây là một tác dụng tâm lý không lộ diện mà giữ được cho người trì giới ứng hợp được với sự hành trì giới hạnh của mình. Hình thức trang nghiêm của giới đàn và sự tác pháp Yết Ma long trọng đã tác động mạnh vào tâm tư của giới tử trong khi thọ giới, làm cho giới thể được phát sinh. Vì tính chất quan trọng của giới thể như thế nên để cho giới thể phát sinh viên mãn, tư cách của người truyền giới và người thọ giới cũng phải được nghiệm xét kỹ càng trước khi tiến hành truyền thọ. 1 Tư cách người truyền thọ Năm trọng tội của một Tỳ kheo là phá Yết ma tăng, phá Pháp luân tăng, phá kiến, phá giới, nuôi đệ tử mà không biết dạy. Do trọng tội thứ năm này mà tư cách làm thầy phải được trang bị ngay từ khi đắc giới Tỳ kheo “Ngũ hạ dĩ tiền chuyên tinh giới luật, hay có thể nói là đã bắt đầu học tập từ lúc còn là Sa di tuy Tỳ kheo sự, Sa di đương dự tri chi. Trong tư cách làm thầy có nhiều đức tính, nhưng chung quy chỉ gồm hai mặt vật chất và tinh thần. Nhất là mặt tinh thần, người làm thầy phải đủ khả năng hướng dẫn người đệ tử thực hiện mục tiêu giải thoát bằng cách chỉ dẫn con đường tu tập Giới, Định, Huệ và vị ấy còn phải có trí tuệ để giải quyết những thắc mắc cho người đệ tử. Trong kinh Khu Rừng Vanapattha suttam_ trong bộ Majjhima Nikaya Phật dạy Một vị đệ tử phải từ bỏ mà đi khi nhận thấy vị đạo sư của mình không có khả năng chỉ dạy cho mình Giới, Định, Huệ dù cho nơi đó có đầy đủ tứ sự cúng dường; và một đệ tử tha thiết xin ở lại dù cho nơi đó có bị vị đạo sư hất hủi, khi vị ấy có đủ khả năng hướng dẫn mình tu tập Giới, Định, Huệ và cho dù nới đây có hay không có đầy đủ tứ sự cúng dường. Nói cụ thể hơn, một vị Tỳ kheo có đủ tư cách làm thầy khi vị ấy hội đủ 5 đức tính như sau 1. Tuổi thọ phải đủ 10 hạ. 2. Phải biết rõ thế nào là trì, phạm, khinh, trọng. 3. Đa văn có kiến thức rộng rãi 4. Có khả năng giải quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử. 5. Có khả năng đoạn tận, đoạn trừ tà kiến cho đệ tử. Nếu xét thấy tư cách làm thầy của mình chưa hội đủ thì không nên làm thầy vội mà phải tiếp tục tu tập trao dồi giới hạnh và kiến thức. Về sự nghiệp, xét tư cách của giới tử trong buổi đầu chỉ đặt trọng tâm ở niềm tin nơi ngôi Tam bảo và có đời sống phạm hạnh Tứ bất hoại tín. Nhưng do khi giáo đoàn được mở rộng cho mọi người không phân biệt thành phần giai cấp trong xã hội gia nhập, thì sự nghiệm xét đơn giản như trước chưa được gọi là tương đối đầy đủ để xác định tư cách một giới tử, do nhu cầu khách quan đó, sự nghiệm xét kỷ lưỡng giới tử lại được thêm vào. Nói riêng về tư cách của vị Hòa thượng đàn đầu lại càng quan trọng. Ngày xưa do điều kiện sinh hoạt của Tăng già khép mình trong phạm vi tự viện riêng lẻ, chưa có những tổ chức giới đàn truyền thọ cụ túc có quy mô rộng lớn như ngày nay, nê Hòa thượng truyền giới, Hòa thượng y chỉ sư và vị Bổn sư thường là một vị. Theo nghĩa nguyên thủy, Hòa thượng có nghĩa là “Lực sanh” là vị có trách nhiệm lo lắng cho đệ tử về mặt vật chất và đời sống tinh thần. Do đó, theo quy định trong Luật tạng, một vị Hòa thượng không được đồng thời truyền thọ giới cụ túc cho hai Sa di trong cùng một năm, vì làm như thế sẽ không làm sao chu toàn trách nhiệm nuôi nấng và giáo dục được. Nhưng trên thực tế ở nước ta ngày nay, nguyên tắc này không được áp dụng. Do vì sự sinh hoạt của Tăng già đã gắn liền với sinh hoạt của Giáo hội, có hệ thống tổ chức từ Trung ương cho đến địa phương, nên việc tổ chức giới đàn truyền giới cụ túc có quy mô rộng rãi trên toàn quốc hay cho một khu vực rộng lớn nào đó, và được Giáo Hội đứng ra đảm trách. Trong trường hợp này, Hòa thượng đàn đầu là một vị Tôn túc trong Hội Đồng Giáo Phẩm được mời ra nên cùng một lúc, cùng một giới đàn, một vị Hòa thượng có thể truyền giới cho một số Sa di đông đảo có khi lên đến 1000 người. Đồng thời, trong chính giới đàn ấy, giới Sa di và giới Bồ tát cũng được tổ chức truyền thọ. Trong trường hợp như thế, ý nghĩa nguyên thủy của danh từ Hòa thượng trở thành trách nhiệm của vị Thế độ Bổn sư. Vì vị Hòa thượng truyền giới trong trường hợp này nhiều khi không biết gì nhiều về thân thế của người thọ giới với mình. Trong kinh Khu Rừng Vanapattha suttam_ trong bộ Majjhima Nikaya Phật dạy Một vị đệ tử phải từ bỏ mà đi khi nhận thấy vị đạo sư của mình không có khả năng chỉ dạy cho mình Giới, Định, Huệ dù cho nơi đó có đầy đủ tứ sự cúng dường; và một đệ tử tha thiết xin ở lại dù cho nơi đó có bị vị đạo sư hất hủi, khi vị ấy có đủ khả năng hướng dẫn mình tu tập Giới, Định, Huệ và cho dù nới đây có hay không có đầy đủ tứ sự cúng dường. 2 Tư cách người thọ giới Về sự nghiệp, xét tư cách của giới tử trong buổi đầu chỉ đặt trọng tâm ở niềm tin nơi ngôi Tam bảo và có đời sống phạm hạnh Tứ bất hoại tín. Nhưng do khi giáo đoàn được mở rộng cho mọi người không phân biệt thành phần giai cấp trong xã hội gia nhập, thì sự nghiệm xét đơn giản như trước chưa được gọi là tương đối đầy đủ để xác định tư cách một giới tử, do nhu cầu khách quan đó, sự nghiệm xét kỷ lưỡng giới tử lại được thêm vào. Đó là kiểm nghiệm 13 Già nạn, còn gọi là 13 chướng ngại đạo pháp, tức là những điều gây trở ngại cho việc chứng đắc Thánh quả ngay trong đời này do thân và tâm có khuy khuyết. Công việc kiểm nghiệm này được thực hiện bởi Tăng, nó thuộc về giai đoạn chính thức tác thành Yết Ma cho thọ cụ túc giới. Luật Tứ phần quy định Trước khi bạch Yết Ma cho thọ Cụ túc giới, Tăng phải khảo hạch 13 Già nạn. Một giới tử nếu có một trong 13 già nạn này thì không thể thành tựu mục tiêu phạm hạnh nên không được phép thọ cụ túc giới. Nếu do không xét nghiệm kỹ mà một người được Tăng cho thọ cụ túc, nhưng về sau nếu bị khám phá ra, thì dù người ấy có được chính thức truyền thọ giới bởi Tăng đi nữa cũng bị tẩn xuất. Vì sự tồn tại và hưng thạnh của Tăng là do có thành tựu mục tiêu phạm hạnh, chứ không phải do số đông. Nay một người không đủ điều kiện để chứng đắc Thánh quả là dấu hiệu của sự suy thoái của Tăng, do đó mà tẩn xuất. 13 Già nạn 1 Phạm biên tội 2 Phá tịnh hạnh Tỳ kheo ni 3 Tặc trú 4 Phá nội ngoại đạo 5-9 Phạm tội ngũ nghịch 10 Bất năng nam 11 Phi nhân 12 Súc sinh 13 Nhị hình bán nam, bán nữ Ngoài ra, giới tử còn bị thẩm tra 10 khinh nạn, vì do 10 điều này không phải là pháp chướng ngại pháp, nhưng đó là những mối ràng buộc bản thân với gia đình và xã hội mà giới tử cần phải giải quyết xong trước khi xuất gia tu tập. Mười khinh nạn được thẩm tra dưới các câu hỏi 1. Có phải là quan trốn đi tu không? 2. Có phải là người trốn nợ không? 3. Ngươi có phải là đầy tớ trốn chủ không? 4. Ngươi có phải là đàn ông không? 5. Đàn ông mà có bệnh cùi hủi, ung thư, ghẻ lở, lao phổi, tiểu đường không? 6. Tuổi đủ 20 chưa? 7. Y bát có đủ không? 8. Cha mẹ có cho phép chưa? 9. Pháp danh ngươi là gì? 10. Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Về việc nghiệm xét tư cách của giới tử thọ Tỳ kheo ni cũng tương tự như của Tỳ kheo, nhưng do tính chất khác nhau nên các già nạn của giới tử ni có vài điểm khác nhau. Ni chỉ có 9 già nạn như sau 1. Đã Tỳ kheo ni giới chưa? Ni đã thọ cụ túc mà hoàn tục, thì dù không phạm biên tội cũng không được xuất gia thọ giới lại 2. Tặc tâm xuất gia. 3. Giết cha 4. Giết mẹ 5. Giết A La Hán 6. Gây thương tích cho Phật 7. Phi nhân 8. Súc sanh 9. Nhị hình Các khinh nạn sau cũng giống như của các Tỳ kheo… Về sự nghiệp, xét tư cách của giới tử trong buổi đầu chỉ đặt trọng tâm ở niềm tin nơi ngôi Tam bảo và có đời sống phạm hạnh Tứ bất hoại tín. Nhưng do khi giáo đoàn được mở rộng cho mọi người không phân biệt thành phần giai cấp trong xã hội gia nhập, thì sự nghiệm xét đơn giản như trước chưa được gọi là tương đối đầy đủ để xác định tư cách một giới tử, do nhu cầu khách quan đó, sự nghiệm xét kỷ lưỡng giới tử lại được thêm vào. Việc nghiệm xét tư cách của giới sư và giới tử như thế sẽ có tác động mạnh mẽ cho sự phát sinh giới thể vô biểu. Như sự thành tựu của pháp Yết-ma Yết-ma như pháp cũng có vai trò quan trọng trong sự phát sinh giới thể vô biểu này. Trước khi tiến hành bạch Tứ Yết-ma thọ cụ túc giới, có một số thủ tục cần phải tiến hành đúng pháp thì Yết-ma mới thành tựu. Có 4 điều kiện để Yết-ma thành tựu, đó là 1 Giới thành tựu Để cho giới thành tựu, tất cả hành sự của Tăng phải được thực hiện trong cùng một cương giới ấn định gọi là giới trường để tránh hiện tượng chia rẽ trong Tăng. Truyền giới cụ túc là việc của tập thể Tăng truyền cho một người. Nhưng túc số tăng chính thức chỉ là 10 vị mà không phải là tập hợp tất cả chư Tăng có mặt trong trú xứ. Vì thế phải có cương giới để khuôn khổ hạn chế đúng pháp Yết-ma và giải quyết này được tính theo nguyên tắc đa số tuyệt đối, có nghĩa là Yết-ma chỉ thành tựu khi 10 giới sư đều nhất trí qua sự yên lặng của mình, không một ai có ý kiến phản đối 2 Sựu thành tựu Sự thành tựu là sự nghiệm xét tư cách của giới sư và giới tử. Sự nghiệm xét này phải được tiến hành trước khi chính thức tác pháp Yết-ma, do một vị Giáo thọ A-xà-lê đảm trách hướng dẫn sự nghiệm xét tư cách như đã trình bày trên. Và sau cùng là Đàn nghi sắp đặt thứ lớp trang nghiêm long trọng đúng pháp. 3 Tăng thành tựu Phải là Tăng thanh tịnh, nếu có phạm các học xứ thì đã được sám hối như pháp. Về túc số Tăng thì chính thức là 10 vị như nếu ở những vùng biên địa Tăng số không đủ thì được phép tiến hành tác pháp với túc số là 5 vị, trong túc số ấy phải có ít nhất là một vị am tường các pháp Yết-ma về lý thuyết cũng như về mặt thực hành. Chư Tăng trong túc số này phải tập trung trong một giới trường đã quy định và phải có những cử chỉ biểu hiện tinh thần hòa hợp, trong đó phải có một vị Hòa thượng và một vị Yết-ma. 4 Yết - Ma thành tựu Yết-ma được thành tựu khi pháp Yết-ma được thực hiện như pháp, nghĩa làkhông có một trong bảy điều phi pháp sau đây 1. Nhân phi 2. Pháp phi 3. Sự phi 4. Nhân pháp phi 5. Nhân sự phi 6. Pháp sự phi 7. Nhân pháp sự phi Ở nơi khác có nêu ra 7 phi tướng của Yết-ma tuy tên gọi có khác nhưng cũng không ngoài ý nghĩa như sau 1. Phi pháp phi Tỳ-ni 2. Phi pháp biệt chúng 3. Phi pháp hòa hợp 4. Như pháp biệt chúng 5. Pháp tương tự biệt chúng 6. Pháp tương sự hòa hợp 7. Bị ngăn mà không chịu đình chỉ Ngoài ra trong khi tác pháp bạch Tứ Yết-ma, chư Tăng trong giới trường phải hoàn toàn nhất trí, không một ai phản đối đa số tuyệt đối Đối tượng của Yết-ma thọ giới cụ túc là giới tử cũng phải nhất trí tự nguyện lãnh thọ giới pháp. Nếu trong giờ phút thỉnh bạch Yết-ma mà giới tử bỗng nhiên sanh tâm hối hận, không muốn thọ giới thì Yết-ma cũng xem như không thành. Sau khi đắc giới, nghiễm nhiên giới tử trở thành một Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni và chính thức trở thành thành viên của đoàn thể Tang già, có những nghĩa vụ và quyền lợi như những thành viên khác. Trong khi tiến hành Yết-ma truyền giới, mỗi lần chỉ được phép truyền thọ cho một giới tử mà thôi. Tuy nhiên nếu số giới tử cầu thọ giới quá đông thì có thể mỗi lần truyền cho 3 giới tử, nhưng tuyệt đối không được quá ba. Nói chung là không có trường hợp Tăng truyền giới cho Tăng. Như những thủ tục trên đã được nghiệm xét đầy đủ, pháp Yết-ma bắt đầu tiến hành đó gọi là Yết-ma như pháp, và giới tử trong trường hợp này được gọi là đắc giới. Đắc giới ở đây không chỉ có nghĩa khi giới tử nghe đọc lên các điều khoản của các học xứ 227 điều theo truyền thống Pàli, 250 điều theo truyền thống luật Tứ phần cho Tỳ kheo, 348 điều cho Tỳ kheo ni giới tử thành tâm lãnh thọ, mà còn phải vâng giữ 4 thanh tịnh pháp còn gọi là Tứ y pháp, đó là 1. Y trên y phấn tảo 2. Y trên sự khất thực 3. Y nơi gốc cây mà ngủ nghỉ 4. Y nơi hủ lãn dược Theo thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, có 10 trường hợp đắc giới cụ túc 1. Tự nhiên đắc giới Trường hợp của vị Độc Giác Phật 2. Kiến đế đắc giới Đắc giới do thấy lý Tứ Đế, như trường hợp năm anh em Kiều-trần-như 3. Thiện Lai tỳ kheo Do Phật gọi “Thiện lai Tỳ kheo” mà đắc giới như trường hợp Da-xá 4. Xác nhận Phật là bậc đạo sư Như trường hợp của Tôn giả Ca-diếp, khi gặp Đức Thế Tôn liền tuyên bố “Đây là bậc Đạo sư của tôi”, và liền đắc giới. 5. Do khéo trả lời Đây là trường hợp duy nhất dành cho thiếu niên Tô-đà-di mới 7 tuổi nhưng đã khéo trả lời câu hỏi “Nhà con ở đâu?” của Phật bằng câu “Ba cõi không đâu là nhà” mà đắc giới 6. Do thọ Bát kỉnh pháp Đây là trường hợp của Ba-xà-ba-đề. 7. Do gửi đại biểu Đây là trường hợp của Tỳ kheo ni Pháp Thọ, do sợ nạn phạm hạnh mà Phật cho phép cử đại diện đến thọ rồi về ruyền lại. 8. Tam ngữ đắc giới Do tuyên bố 3 lần Tôi xin quy y Phật, Pháp, Tăng” đây là trường hợp thường xảy ra khi Phật chưa quy định pháp bạch Tứ Yết-ma thọ giới. 9. Thọ giới với tăng mười người Dành cho mọi giới tử thọ giới ở nơi đô thị có đông đảo Tỳ kheo. 10. Thọ giới với tăng năm người Đây là trường hợp dành cho giới tử ở những nơi biên địa không có đông đảo Tăng chúng. Trong trường hợp này phải có ít nhất là một vị trì Luật và hiểu các pháp Yết-ma. Trong 10 trường hợp trên, 8 trường hợp đầu chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế, và cũng là những trường hợp đặc biệt cho một số người thôi. Chỉ có 2 trường hợp cuối cùng, gọi chung là “Bạch Tứ Yết-ma đắc giới” là được áp dụng phổ thông lưu truyền chính thức cho đến ngày nay. Riêng trường hợp Ni thọ giới cụ túc thì có những điểm sai khác như ngoài hội đồng thập sự Tăng, còn có một hội đồng thập sự Ni. Giới tử Ni sau khi được xét nghiệm về tư cách của giới tử, đại khái như đã nêu trên, pháp Yết-ma truyền thọ được tiến hành tại trong Ni Tăng gọi là bản bộ Yết-ma chính thức truyền giới. Bản bộ Yết-ma thực hiện xong, nội trong ngày ấy không được để qua đêm, hội đồng thập sự Ni phải dẫn giới tử Ni qua hội đồng thập sự Tăng để cầu chánh pháp Yết-ma Ấn chứng cho sự truyền thọ. Ở đây, chỉ nêu sơ lược các chi tiết kiểm nghiệm giới tử, cách thức tác pháp Yết-ma trong các bộ Yết-ma đều nói rõ từng chi tiết. Phật quy định Tỳ kheo phải đủ 10 hạ, Tỳ kheo ni phải đủ 12 hạ mới được thu nhận đệ tử, độ người xuất gia, và trước khi độ người xuất gia, phải được Tăng thông qua với pháp Yết-ma súc chúng. Nếu Tăng thấy chưa đủ tư cách thâu nhận đệ tử xuất gia, dù người ấy đã đủ tuổi hạ, thì cũng không được tự tiện độ người xuất gia. Nếu làm thì phạm Ba-dật-đề. Sau khi đắc giới, nghiễm nhiên giới tử trở thành một Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni và chính thức trở thành thành viên của đoàn thể Tang già, có những nghĩa vụ và quyền lợi như những thành viên khác. Tuy nhiên, vị tân Tỳ kheo ấy, suốt thời gian 5 năm đầu phải y chỉ nơi một vị Thượng tọa Luật sư vị Tỳ kheo thông hiểu giới luật để học tập cho am tường cac bổn phận trách nhiệm cũng như những điều tác thành tư cách của một Tỳ kheo, tức là am tường các học giới, hiểu rõ thế nào là danh, chủng, tánh, tướng; thế nào là khai, giá, trì, phạm; thế nào là khinh trọng và thông thạo các pháp Yết-ma về lý thuyết cũng như thực hành. Một trong những bổn phận người xuất gia là tục Phật Thánh lưu, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Muốn thực hiện bổn phận ấy, vị Tỳ kheo phải có đủ tư cách làm thầy. Do đó, Phật quy định Tỳ kheo phải đủ 10 hạ, Tỳ kheo ni phải đủ 12 hạ mới được thu nhận đệ tử, độ người xuất gia, và trước khi độ người xuất gia, phải được Tăng thông qua với pháp Yết-ma súc chúng. Nếu Tăng thấy chưa đủ tư cách thâu nhận đệ tử xuất gia, dù người ấy đã đủ tuổi hạ, thì cũng không được tự tiện độ người xuất gia. Nếu làm thì phạm Ba-dật-đề. Tóm lại, Tăng đoàn là tập thể có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của Phật pháp. Khi nào hàng ngũ Tăng già có những bậc chân tu thạc học, đạo cao đức trọng, có đủ tư cách làm nghi biểu cho đời, có đủ trí huệ làm đuốc sáng cho đời, thì khi ấy Phật pháp được hưng thịnh. Trái lại, khi nào trong hàng ngũ Tăng già không có những vị Tăng tài đức như trên, thì dù số lượng có đông nhiều đi nữa, đó cũng là dấu hiệu suy đốn của chánh pháp. Nhưng làm sao để có thể đào tạo được những con người, có được những con người có được những đức tính như thế? Dĩ nhiên là phải y cứ vào giới luật làm kim chỉ nam cho sinh hoạt Tăng đoàn, mà một trong những vấn đề giới luật có vai trò quan trọng trong việc tác thành nhân cách một Tỳ kheo, đó là sự truyền thọ giới pháp. Nếu không có sự truyền thọ như pháp thì không có Tỳ kheo đắc giới. Không có Tỳ kheo đắc giới như pháp thì bản thể của Tăng không thành tựu. Tăng không có giới bản thể thì không thể nào tiến bộ về mặt tâm linh, không thể nào có người tu chứng. Và như vậy, chánh pháp sẽ không làm sao tồn tại được, cho nên vấn đề truyền thọ giới pháp cho người xuất gia có một ý nghĩa quan trọng trong Phật pháp. Cũng vì vậy mà vấn đề này chiếm một phần trong bốn phần của Luật Tứ Phần. Phật quy định Tỳ kheo phải đủ 10 hạ, Tỳ kheo ni phải đủ 12 hạ mới được thu nhận đệ tử, độ người xuất gia, và trước khi độ người xuất gia, phải được Tăng thông qua với pháp Yết-ma súc chúng. Nếu Tăng thấy chưa đủ tư cách thâu nhận đệ tử xuất gia, dù người ấy đã đủ tuổi hạ, thì cũng không được tự tiện độ người xuất gia. Với mục tiêu giải thoát, giác ngộ trên tinh thần tự giác là châm ngôn hành động mà Phật đã dùng để khuyến hóa, giáo dục những người xuất gia. Nhưng trong giáo đoàn xuất gia vẫn có những người xuất gia không vì mục tiêu chân chính đó, không cùng sống trong tinh thần hướng thượng với lý tưởng giải thoát, cũng không chuyển hóa tâm linh qua sự nghiêm trì phạm hạnh. Chính vì điều này mà càng về sau, sự truyền thọ giới pháp càng được chính Đức Phật đề ra những quy định chặt chẽ để kiểm nghiệm, để thử thách, để thanh lọc hàng ngũ Tăng đoàn, nhằm bảo đảm tánh trong sạch cho cá nhân và tập thể để xứng đáng là một trong ba ngôi báu trong Phật pháp. Tuy chú trọng về việc tự giác và pháp triển tâm linh, nhưng cũng phải dựa vào hành vi biểu lộ bên ngoài để làm tiểu chuẩn pháp định. Vì thế mà sau khi Phật diệt độ, Luật tạng được kiết tập một cách trung thành, dù Phật đã có cho phép bỏ bớt những điều chi tiết nếu thấy không cần thiết sau này. Chúng ta cũng không lấy làm ngạc nhiên gì khi Tôn giả Ca-diếp được cử làm thủ lãnh giáo đoàn, Tôn giả Ưu-ba-ly được suy tôn làm vị chấp chưởng về giới luật vì là những vị có giới hạnh tiêu biểu nhất. Tôn trọng giới luật, thì cũng tôn trọng việc truyền giới là lẽ đương nhiên. Tôn trọng sự truyền giới, thì những quy định của pháp Yết-ma không thể bỏ qua được, dù bất cứ lúc nào, ở đâu, và dù là theo hệ phái nào. Vi phạm quy định ấy cũng đồng nghĩa với sự làm tổn thương đến phẩm chất và quyền lực của Tăng già, đó là dấu hiệu suy đồi của chánh pháp. Những ai trong hàng ngũ xuất gia có để tâm thiết tha đến sự tồn vong của chánh pháp, có thao thức ưu tư đến vấn đề “Tre tàn măng mọc”, có hoài bảo “Thiệu long Thánh chủng, kế vãn khai lai” thì không thể không để tâm nghiên cứu học hỏi tường tận về các pháp Yết-ma, nhất là Yết-ma truyền giới cụ túc, độ người xuất gia. Hòa thượng Thích Huệ Hưng giảng - Đại Đức Thích Thiện Toàn ghi
ưu bà tắc ưu bà di là gì